Từ những năm đầu thời sinh viên. Tôi ban ngày đi học, tối đi làm thêm để kiếm thêm thu nhập riêng. Tuy là mệt nhưng đối với tôi những đồng lương đó cho tôi một nghị lực của một đứa con xa nhà. Nhà thì nghèo mà đi học xa, cha mẹ lo cắm cúi mần, nhưng cũng không thoát khỏi cái vòng quanh của chữ “Nghèo”, thế nên khi được nghỉ tết tôi lên thành phố kiếm việc để làm. Công việc cũng nhiều nhưng cái chính là được nhân ba ngày lương bình thường. Trong lúc mọi người về quê ăn tết, vui vẻ bên gia đình thì tôi lại nhào vào những công việc của họ. Không phải vì tôi không muốn về nhà nhưng trong cái vòng quanh kia, tôi ngục ngã thì đã làm phí công sức của cha mẹ. Điểm đến của tôi là một quán phở ở quận 5.
Quán phở rất đông khách, nhất là giờ cao điểm lúc sáng sớm khoảng từ 6 giờ đến 8 giờ, còn buổi chiều tối khoảng 19 giờ đến 21 giờ. Tôi được phân công làm ca rẫy từ 11 giờ chưa đến 14 giờ chiều và từ 17 giờ đến 22 giờ. Quán phở có 3 tầng, tầng trệt bán phở, tầng 2 là lúc khách đông không còn chỗ ngồi thì lên, tầng 3 là chỗ ngũ của nhân viên và một góc là nơi phơi đồ. Ngày đầu tiên làm không tốt cho lắm, phải nhờ nhiều người chỉ dẫn. Nhiều ngày sau đó tôi đã thành thục hết mọi việc.
Như mọi ngày. Bắt đầu công việc của mình với cái vẻ lau, nó còn mới và sạch. Tôi lau những chỗ khách mới vừa ăn xong, những vết tương ớt, tương đen, hay những vũng nước phở thật thơm ngon rơi xuống bàn. Gơm những cọng rau chỉ còn thân và lá hư, khăn lạnh dơ xuống xọt rác. Khách vào đông, chúng tôi lau nhanh nhưng đôi khi cũng không được kĩ cho lắm, còn khách lai rai bình thường thì chậm. Không chỉ lau mà còn bưng những tô phở phà khói nóng hỏi thơm ngon nữa. Có lần:
– Thanh, bưng phụ tô phở Tái lại bàn số 6, nhanh lên.
– Dạ.
Tôi chạy lại, đưa hai tay lên tô phở đang nóng kia. Mùi hương thật thơm làm sao, mùi của xương bò, mùi của gia vị, mùi của miếng thịt bò được cắt mỏng, mùi của bánh phở lòng vào nước, quá ngon. Lại thêm phần sang trong khi được đựng trong tô sành trắng, có in thương hiệu phở, nó bóng láng và sạch sẽ, phía dưới tô là một cái dĩa cùng loại để thêm phần trang trọng và dễ bưng và bớt nóng. Khi tới bàn tô phở được thêm nhiều nguồn hương khác như: Giá thường trụn qua nước sôi, ngò gai, cải sà lách, rau thơm, rau díp cá, thêm tương đen, tương ớt và nhiều loại khác nữa. Đó là mùi trộn lẫn của nước, thịt bò, mùi của các loại rau và mùi cay của ớt đã tạo nên hương vị đặt biệt của phở. Cứ khách tới là bưng, khách về là dọn, công việc cứ như thế là làm. Mới vô làm thì ông quản lí không cho tín tiền, khi biết công chuyện rồi mới được tính. Còn tiền thối lại khách bo, nói theo kiểu ăn mày là bố thí cho mấy đồng bạc lẽ. Mà thôi kệ, chẳng suy nghĩ cho mắc công. Ở đây ai cũng phải biết ghi món khi khác gọi, tôi cũng không loại trừ. Nào là Tái – Nạm – Gân – Gầu – Viên – Sách – Đặc biệt – Thập cẩm, đủ lọai đôi khi cho cả trứng gà, nướt tiết, hay mì gói vào nữa. Có một lần ghi sai món nhầm giữa Gân và Gầu, Gân thường ghi là G và Gầu có dấu huyền ở trên. Bữa đó chút xíu là đền một tô phở.
Khi vắng khách, tôi thường lột tỏi, châm tương vào bình, hay kiểm tra muỗng đũa, cắt chanh và ớt. Cắt chanh ớt cũng là một nghệ thuật, lúc trước tôi chỉ biết cắt thành nhiều lác ra rồi nặng, nhưng ở đây thì không, nó theo một khuôn khổ được quy định sẵn. Cắt chanh làm sau 1 trái trung bình là 3 miếng, cắt xoay tròn và cuối cùng là cái cùi, trên miếng tranh không được xót lại lát cùi nào. Còn ớt sắt lát mỏng và xéo dài. Ở đây rất nhiều công đoạn công phu mà thực tế mới biết được. Những chiếc đũa, muỗng chưa được nhiều thì thêm vào. Đôi khi tôi nghĩ đây là những công việc nhàm chán nhất, ai cũng cấm cúi mà làm chẳng nói chuyện được nhau. Tan ca mạnh ai nấy về chỗ ngủ, lên ca lại tiếp tục làm. Ôi! Chán quá. Tối đến người trực tiếp trên bếp lao chùi sạch sẽ nơi đứng bán. Có lần tôi nghĩ chuyện này quá đễ, nhưng rồi thời gian và hành động đã cho tôi nhìn thấy tường tận của sự việc. Thật sự nó không đơn giản. Đó là những nơi dơ nhất, nơi thường bám bụi, nơi người đến mua phở thường để ý. Tôi đã thực nghiệm nó trong bộ mình đầy mồ hôi, có những vết dầu mỡ bám, một đôi chân lắm nước và xà phồng, cuốn hai ống quần lên như hai lúa ra đồng. Xả áo xuống hay cởi trần phì ra bộ ngực lép như con mấm tôm, xịch nước và lau chùi. Sắp xếp đồ đạc và chuẩn bị cho ngày mới.
Vào giờ cũng tương đối đông, ai cũng chạy ra chạy vô, lấy này lấy kia, nói ra nói vào, lấy và đưa tiền. Còn tôi đang lật đật ôm một đống tô vào trong bếp rữa, rồi phải cấm cúi nhìn lác qua lác lại có khách vào không, rồi chạy vội lấy chai tương ớt cho khách. Tôi kịp nhìn lía qua thằng Quân cũng đang bưng hết tô này đến tô khác cho khách. Quân cùng tuổi với tôi nhưng nó làm lâu hơn tôi, đã ba năm rồi, chân tay nhanh nhẹn hơn. Rồi tôi nhìn sang chị Hằng đang chia những lọn rau ra khây cho khách, Cô Ba đang làm nước Cam vắt, anh Tuấn đang nhúng từng bánh phở, anh Thắng cho thịt vào tô, thằng Tèo đang sắp xếp những chiếc xe vào chỗ. Ngỡ như tôi là một cái máy ghi hình lại toàn bộ sự việc đang diễn ra tại quán vậy.
Một hôm, tôi chứng kiến một việc mà cho đến ngày nay nhớ mãi. Trong cái thành phố đó còn bao nhiêu người như thế, những con người chưa biết ăn ngon mặt đẹp là như thế nào, cái nhìn đó, ánh mắt đó vẫn hiện lên, đôi khi tôi mơ màng gặp lại đứa bé ấy, chất ngây thơ và đói. Khi mọi người đang chú ý đến những tô phở ngon lành. Người thì lặt những cộng rau, người cho tương ớt vào, người nặng chanh, người nhìn một cái rồi cho vô miệng, nhằm lúc thấy người ta ăn mà mình cũng thấy thèm, tuy bữa nào cũng được ăn nhưng đó là thịt thừa trong lúc lát thịt, chứ đâu được ăn chính thức như những người khách, nước miếng tôi cứ chảy lòng vòng trong miệng, tiếng ực ực cứ thao thao bất tuyệt kiêu lên. Tôi nhìn ra ngoài sân và nhìn hai người khách. Có vẻ như người cha và một đứa con trai đang thèm một tô phở, cứ nhìn trầm vào. Tôi đi nhanh ra và hỏi thì người bật tiếng hơi ngẹn lại:
– Cho tôi một tô phở Nạm mang về. Tôi lúng túng và đáp lại.
– Dạ. Chú đợi một chút.
Trong lúc đợi anh Hên làm phở tôi nhìn hai cha con. Người cha khoảng ba mươi hay ba mươi hai gì đó, áo có lỗ rách ở vai, xạm màu tối. Quần thì ống cao ống thấp, có những mãnh vá. Có đeo một chiếc túi đen nhưng dính bùn hay xi măng trộn cát, lúc đó trời tối nên không thấy rõ. Đôi dép bị cụt mõ và tét một đường. Tôi nhìn lên mắt ông ta, có những nét nhăn trên mặt, đen và sằn xụi, ông ta có một chút ngần ngại khi thấy tôi nhìn chầm vào ông. Tôi chuyển hướng quay sang nhìn đứa con, cậu bé rất dễ thương, khoảng 7 tuổi, cầm một chiếc quạt mo trên tay. Chắc có lẽ đó là quà tặng của người cha chăn. Bộ quần áo của đứa bé cũng không thua người cha. Không được lành. Tôi đang thơ thẫn nhìn họ thì người cha bất ngờ kiêu tôi lại hỏi:
– Tô phở bao nhiêu tiền vậy Anh? – tôi nhìn vào người cha, trong cái nét mắt đó là sự sợ hãy, lo lắng một đều gì đó nguy hiểm, hay sợ mất một vật gì đó. Tay ông đang rung, đang sợ, và đang chuẩn bị một cú đòn phản công nào đây. Người con cũng rung theo, nắm tay người cha thật chặt, nheo mắt nhìn tôi, như muốn van xin một đều. Còn tôi chợt nhận ra rằng mình đang là một con ác quỹ hại người hay họ đang đợi một câu trả lời băng giá, có thể đóng băng họ về mặt tinh thần. Tôi xóa bỏ những suy nghĩ vớ vẫn trả lời ngay.
– Dạ. Sáu mươi lăm ngàn một tô. Người cha giật mình và lẩm bẩm điều gì đó mà tôi nghe không rõ, tay ông càng run trong túi lúc thò tay móc tiền. Người cha nhìn về phía trước, tay ông vẫn còn để trong túi quần, rũn rẫy như những người nghệ sĩ đánh đàn. Tôi ngó theo, ông bậm môi, mặt nhếu lại, một giọt nước rơi từ đâu xuống, ông đang khóc và ngay từ lúc đó tôi hiểu ra mọi chuyện. Ông vẫn khóc, tôi vẫn nhìn cho đến khi có người gọi tôi. Thanh, lại đây vào đồ mang về dùm anh. Anh Tuấn gọi. Tôi chạy lại và cảm giác như có một cái gì cản lại, tôi muốn nhìn người con, cậu bé muốn ăn phở kia. Cậu ở phí sau nhìn những tô phở nóng hỏi đang bưng ra nhưng không phải dành cho cậu mà cho người khác, cậu không biết người cha thiếu tiền để mua một tô phở, để rồi một câu nói kia đã đánh tan đi giấc mơ, có lẽ như đánh vào xác thịt em vậy. Thôi, để bữa nào cha mua cho con, hôm nay cha không đủ tiền mua. Người cha nói với đứa con. Lời nói thật đó đã đánh vào người con trai và cũng đánh vào tôi, đánh vào ông. Tôi cũng là người làm thuê, cũng tìm việc, kiếm miếng ăn và nhìn cảnh đời. Tôi đã nhìn thấy, tôi đã biết và đã…. Đứa con nhìn lên người cha, nó đã thấy nham nhám nước mắt, nhìn thấy nỗi lòng và nhìn thấy mình… Dạ. Vậy chúng ta đi ăn hủ tiếu gõ. Người con trả lời lại. Người cha nhìn tôi, lại nét mặt đó, lại ánh mắt đó có vẻ như ông muốn nói lời xin lỗi. Nhưng ông không thể nói, không thể lại gần để xin lỗi. Bật một tiếng vang lên, người cha và đứa con vụt mất. Tôi đã hiểu. Tôi ăn tô phở đó. Tôi khóc. Tôi nhớ.
Trời đang se lạnh, tôi đi trên đường Nguyễn Trãi. Yên lặng. Những tòa nhà cao ốc chỉ còn đèn chiếu lắp lánh, xe máy vụt qua rồi lặng, âm vang của lời nói trong quá ăn cũng không còn, không còn người đợi đèn xanh, không một người. Một con chuột cóng to đang lôi một cụt thịt vào một cóng rãnh, có lẽ người ăn đã đánh rơi nó. Lon bia bị bóp méo lăn lóc trong cơn gió khuya. Những hoa Vạn thọ trước cửa nhà đang tàn dần, héo úa như người già bệnh. Tôi vẫn đi. Vẫn đi. Tôi ngồi vào một quán hủ tiếu bên kia đường, chỉ còn một người khách đang cố ăn nốt miếng thịt phía trong cụt xương to. Không biết tại sao lại ghé vào đây, chắc là ngán phở. Không. Có lẽ tôi đang tìm hình ảnh của người cha hôm qua. Tôi kêu một tô hủ tiếu, thật chất không muốn ăn. Cố tìm một cái gì đó, cố tìm gặp và có lẽ mãi mãi cũng không được gặp. Trời đã gần sáng, người đàn bà kia cũng mệt mỏi, bà ngáp mấy cái, dấm lưng mấy đấm. Nồi nước lèo cũng sắp cạn, chỉ còn vài miếng thịt nhỏ và một khoanh giò, giá chỉ còn cỡ một nắm tay. Than cũng tàn, dần chuyển đỏ sang màu sữa. Còn người đàn ông, chắc là chồng, đang cấm đầu móc những mãnh khăn giấy dín rên nền gạch. Ông cố quét hết rác, dọn dẹp và ngủ nột giấc. Tôi không cẩn thận làm rớt chiếc đũa, tôi có linh cảm sắp xảy ra chuyện gì. Phớt qua một đàn ông khoảng ba mươi, cũng có một vết rách trên vai, cũng ống quần hai lúa và đứa bé ấy….
– Cho tôi hai tô hủ tiếu. Tiếng vang lớn kề tai tôi, giọng nói đó vừa vang, đó là giọng mấy hôm trước.
– Anh thông cảm, chỉ còn một tô và một tô của anh bên kia gọi trước. Người đàn bà trả lời. Họ nhìn sang tôi. Tôi nhìn lại là nét mặt ấy, là ánh mắt ấy, những hình ảnh đó tôi không quên được và hôm nay trước khi tôi về, ông trời đã tặng cho tôi một món quà thật ý nghĩa. Tôi nhường tô hủ tiếu, dẫu sao tôi cũng không muốn ăn. Nhìn cậu bé ăn, tôi khóc trong âm thầm. Nước mắt rơi xuống, rơi xuống. Ánh mắt ấy nhìn tôi, có lẽ ông ấy đã nhận ra, thằng nhân viên quán phở mà ông từng vụt xe đi mất, ông nợ lời xin lỗi. Ông nhìn mà không nói. Chỉ nhìn. Họ ăn xong cũng là lúc tôi bước đi.
Tôi bước đi. Có lẽ họ nhìn tôi, ghi nhớ vào trong tim. Tối hôm đó cũng là ngày làm cuối cùng của tôi. Tôi lại trở về nơi cũ. Về nhà. Có lẽ tôi cũng không gặp lại khuôn mặt ấy, ánh mắt ấy, hai hình ảnh ấy. Có lẽ đứa bé ấy sẽ….