Người lính trở về – Nguyễn Duy Liễm

 Bước xuống khỏi xe sau nhiều tiếng đồng hồ bị lèn, bị ép với bao hành khách, thế là Huỳnh đã đặt chân xuống, về lại mảnh đất quê hương sau gần chục năm xa cách.
 Mang chiếc ba lô sau lưng, nhưng Huỳnh còn mang theo chiếc túi du lịch. Chiếc ba lô vốn là cả gia tài người lính. Nó thường ôm sát đôi vai khi người lính di chuyển hành quân đã đành một nhẽ, còn với chiếc túi du lịch vào thời điểm này, khi đất nước vừa hòa bình thống nhất chưa trọn một năm, với người dân phía Bắc, nó là vật dụng xa xỉ. Rồi, cũng lại khác với thường tình, anh không xách túi trên tay mà cứ ôm rịt vào lòng.
 Đứng trên mảnh đất đã tạo ra máu thịt đời mình, mắt Huỳnh đảo khắp không gian, nơi đây được gọi là phố thị. Chao ôi! phố thị mà nhà cửa tềnh toàng, toàn mái tranh vách đất. Hẳn những năm qua đạn bom của giặc Mĩ đã tàn phá nó, để cái phố thị nghèo nàn này đã mấy phen cháy đi dựng lại. Phố thị nghèo nàn, dân cư thưa thớt đã vậy, cứ mười người dân thì có tới ba bốn người đầu chít khăn tang.
 Vậy là chiến tranh đã mang theo bao thân phận, bao cuộc đời quê anh vào cõi lặng, khiến Huỳnh cứ ngơ ngác bần thần. Anh liên tưởng đến mẹ già còm cõi bao năm tháng mong ngóng tin anh. Và người vợ mới cưới tuy chỉ vừa kịp bén tiếng quen hơi nhưng nỗi khao khát nhớ thương luôn ám ảnh theo anh suốt chặng đường chinh chiến. Một đoạn đường chừng năm cây số, anh muốn hộc tốc về ngay để biết tin những người thân thương ruột thịt của mình.
 Song, anh còn một quê nữa đề về. Quê ngoại. Nơi ấy chỉ cách đây chưa đầy một cây số. Ở đấy, cũng với những con người ruột thịt thân thương, là nơi cung cấp đủ lượng thông tin cho anh về những ngày xa vắng.
 Và anh chọn quê ngoại để về sau phút đắn đo.
***
 Thấy Huỳnh đẩy cổng bước vào sân, con chó vàng đang nằm lim dim mắt ở đầu hè, nó vùng dậy xông ra sủa. Nghe tiếng chó sủa vang, người đàn bà đang hái chè ngoài vườn chạy ra đon đả. Thấy Huỳnh chỉn chu trong bộ quân phục, vai khoác ba lô nên chị hỏi:
 – Anh là đồng đội với anh Thế nhà em phải vậy không ạ? Ôi! bất ngờ quá, Huỳnh chưa kịp hỏi thì người phụ nữ trẻ trung xinh đẹp này đã tự xưng ra. Vậy là cậu Thế đã có vợ. Cậu là con út của ông bà ngoại. Hai cậu cháu tuổi xấp xỉ ngang nhau. Cậu nhập ngũ trước Huỳnh một năm, được biên chế vào làm lính cao xạ 37 ly, trực chiến bảo vệ bầu trời miền Bắc. Khi đi, chưa thấy cậu có một mảnh tình nào vương vấn. Hẳn vợ cậu bây giờ là gái thiên hạ – là du kích, dân quân một làng quê nào đó mà trong những chặng đường thuyên chuyển của người lính phòng không, cậu đã cưa đổ được một cô gái xinh đẹp dường này.
 Thế – người cậu út của Huỳnh đang ngồi đọc báo, nghe tiếng vợ đang nói chuyện với khách lạ ngoài sân vội quơ lấy đôi nạng gỗ rê chiếc chân còn lại ra cửa nhìn. Thấy Huỳnh, anh sững lại…bị cú sốc bất ngờ khiến một bên chân còn lại không trụ nổi sức nặng cơ thể, anh liêu xiêu muốn đổ xuống thềm nhà. Thế thốt lên:
 – Mình ơi! Anh gọi vợ: Mình ơi! Sao lại thế này? Tôi đang mơ à…..?
 Vợ anh, chị Lan hoảng hốt nhao vào đỡ lấy chồng:
 – Anh Thế….Anh làm sao vậy? Có anh bộ đội tìm đến thăm mình. Hẳn là bạn chiến đấu của anh đấy.
 – Không….không…..nó…..Nó là……
 Huỳnh bỏ vội chiếc ba lô ra khỏi vai, anh ôm chiếc túi du lịch nhao theo vào đỡ lấy cậu.
 – Cậu Thế, cậu không nhận ra cháu sao? Cháu là thằng Huỳnh đây mà.
 – Thằng Huỳnh, cháu tao, tao quên sao được. Nhưng mày là ma hay là người, mày đã chết rồi mà….|
***
 Ai đó đã từng nói chiến tranh luôn đem đến những nỗi buồn. Song, không chỉ có vậy, nhiều khi nó vẫn lóe ra bừng sáng lại một tia vui. Huỳnh đã chết. Đúng. Anh đã chết vào đúng lúc giữa cuối mùa khô miền Đông nắng trời đã rang kiệt đất. Đồng đội đã gói gém cho anh bằng một tấm tăng, đã đào hố. Đất miền Đông pha lẫn sỏi mùa khô chai quánh tựa bê tông, cái huyệt chôn anh có cố lắm cũng chỉ moi sâu được sáu bảy mươi phân, chôn anh rồi vun cho anh một lùm lùm nấm mộ. Họ bổ đôi một đoạn cây rừng làm bia khắc tên anh cắm bên ngôi mộ. Rồi sẽ phó mặc cho thời gian phân hủy xác thịt anh được tan hòa trong đất. Giống như bao thân phận của những người lính đã nằm xuống trong một cuộc can qua kéo dài suốt hai mươi năm. Song, với Huỳnh đã thành ngoại lệ với vận may “bất tử” để anh lại đội đất chui lên.
***
 Là một chàng trai cường tráng lực lưỡng, Huỳnh vào chiến trường miền Đông Nam Bộ đã hai năm qua mà anh chưa bị một cơn sốt rét nào. Điều ấy làm anh khác biệt với những đồng đội có nguồn gốc từ các tỉnh Đồng bằng phía Bắc. Họ, đồng đội của anh người nào cũng mặt bủng ra chỉ vì những cơn sốt rét định kỳ. Nhưng chiến trường miền Đông Nam Bộ là môi trường cuộc sống cực kỳ gian nan, khốc liệt. Dù có sức khỏe đề kháng đến vậy mà Huỳnh vẫn bị vi trùng sốt rét vật quỵ. Thường những người có sức chịu đựng như anh mà đến lúc phải ốm là thường ốm rất nặng. Huỳnh sốt cao tới đến 420C. Cơn sốt kéo dài suốt một ngày một đêm hành hạ bắt anh nguột đi không hồi tỉnh lại. Thấy tuần hoàn cơ thể anh đã ngưng nhịp, mọi người cho rằng anh đã chết nên gói ghém anh vào tấm tăng đem đi mai táng.
 Cùng tiểu đội với Huỳnh có Triệu Tà Pinh người dân tộc Thanh Phán quê núi rừng Ba Chẽ, Quảng Ninh. Họ cùng tháng năm sinh nên Tà Pinh nhận Huỳnh làm anh em đồng niên. Hai chàng trai quý mến nhau họ gắn bó thân thương như ruột thịt.
 Đúng vào lúc Huỳnh lên cơn sốt thì Tà Pinh được điều đi phối hợp với đơn vị bạn tham gia một trận đánh lớn. Khởi đầu cơn sốt, Huỳnh thấy người ngây ngấy, sau những cái rùng mình bất chợt là người gai gai ớn lạnh. Rồi các đốt xương nhức mỏi rã rời… Được tin Huỳnh sốt, Tà Pinh tìm đến thăm bạn, cũng là đến để chia tay trước khi vào trận đánh. Với người lính chiến, trước khi vào trận đánh đều đã tự xác định tư tưởng cho mình. Tao có thể không trở về, Tà Pinh nói với bạn rồi anh móc túi đưa cho bạn hai thứ giấy tờ mà người chiến sĩ trong chiến trường khi ấy, ai có cũng xem là vật bất li thân. Thẻ Đảng và chứng minh quân giải phóng (những giấy tờ cấp phát cho chiến sĩ đi B trước năm 1970).
 – Mày giữ hộ tao, Tà Pinh nói với bạn. Nếu còn sống mai về tao lấy lại, Huỳnh đem hai mảnh giấy bạn đưa lận vào phía trong túi áo đang mặc trên người, rồi mê man vào cơn sốt.
 Tắc trách ở đây là sự vô tâm của những người làm công việc khâm liệm cho Huỳnh, họ không kiểm tra kỹ lưỡng nên đã chôn cả hai tấm thẻ theo thi thể huỳnh.
 Trận đánh ấy thắng lớn, Tà Pinh vẫn sống, anh trở lại đơn vị, vội vã đến tìm Huỳnh để chia sẻ niềm vui, thì được tin bạn đã chết. Đau đớn, sót thương, Tà Pinh tìm ra ngôi mộ đào bới moi xác Huỳnh lên để nhìn bạn lần cuối và cũng là để lấy lại hai tấm thẻ mình gửi bạn lúc ra đi. Rồi, vì nhẽ ấy mà một chuyện hi hữu đến kỳ lạ đã xảy ra. Và nó đã trở thành một giai thoại độc nhất vô nhị về những người lính trong một cuộc chiến tranh.
 Sau cả chục tiếng đồng hồ bị chôn vùi trong lòng đất. Huỳnh chết, nhưng ảnh chỉ chết “lâm sàng” như thuật ngữ mà ngành y thường gọi. Do cơ thể thanh xuân của Huỳnh chưa chịu buông xuôi, anh hồi tỉnh lại vừa khi Tả Pinh đào bới anh lên.
 Chiến tranh là vậy, đã nói là điều gì nó cũng có thể xảy ra mà. Sau lần được hồi sinh, Huỳnh bình phục dần. Anh lại tham gia nhiều trận đánh để đi qua đến hết cuộc chiến tranh.
 – Thế còn thằng Tà Pinh bạn mày thì sao? Sau khi kéo Huỳnh vào nhà, cậu Thế bắt anh thuật lại câu chuyện may mắn của mình cho cậu mợ nghe, Thế mới giật giọng hỏi cháu.
 – Nó đấy! Huỳnh vỗ nhẹ tay vào chiếc túi du lịch mà anh vẫn ôm khư khư ở trong lòng. Nghe vậy, cậu Thế trợn mắt lên quát cháu.
 – Trời đất ơi! Mày mang hài cốt bạn về sao bây giờ mới nói. Không để cho cháu kịp trả lời, Thế quay qua giục vợ, mình đem chiếc bàn nhựa ra kê cho ngay ngắn rồi lấy lon xúc cho tôi lon gạo ra đây, thắp cho nó thẻ hương. Khi mọi sự đã sắp đặt xong, Thế giục cháu đặt chiếc túi đựng hài cốt Tà Pinh lên cho yên vị, anh đốt nhang lầm rầm khấn:
 – Tà Pinh à, tao coi mày cũng như thằng Huỳnh, mày hãy tạm yên vị ở nhà tao, chuyện về sau để còn lo liệu.
 Khi mọi chuyện đã giải quyết đến đây, Thế quay qua hỏi cháu:
 – Giờ mày định thế nào?
 – Cháu muốn về qua nhà, cho mẹ và vợ cháu biết tin trước đã.
 “Cháu muốn về qua nhà cho mẹ và vợ cháu biết tin trước đã”. Vậy ra cho đến lúc này thằng Huỳnh vẫn chưa biết một chút thông tin nào về những người thân của nó. Nơi mà thằng Huỳnh muốn tìm về đâu còn gì thuộc về nó nữa. Trong lòng người cậu lại nhói lên một nỗi niềm xa xót nữa….
 Với chiến tranh, gặp những trường hợp như cái chết đi rồi sống lại như trường hợp của Huỳnh, người ta không có điều kiện để sửa sai đính chính. Huỳnh đã được đơn vị cho trích lục sơ yếu rồi gửi lên ban quân lực Trung đoàn. Trung đoàn chuyển giao thông tin về Bộ. Đấy là căn cứ để xác lập giấy báo tử thông báo về địa phương. Nhận được cái tang đau đớn này, hai người đàn bà – mẹ và vợ Huỳnh thành đơn côi góa bụa, nương tựa vào nhau. Khi nỗi đau đã tạm nguôi ngoai thì gặp lúc có đoàn thương binh từ chiến trường miền Nam ra an dưỡng. Họ mượn cơ sở là nhà dân cho thương binh nằm điều dưỡng. Thấy một thương binh quê trong Bình Định có hoàn cảnh éo le. Cha mẹ, vợ con anh đều bị chiến tranh hủy diệt. Mẹ Huỳnh đã gọi chuyện với con dâu: Mẹ thấy anh ấy là người chân thành tốt tính. Mẹ muốn con chắp nối với anh ấy. Đầu còn xanh, tuổi còn trẻ, con không sống mãi như thế được đâu. Các con cứ ở lại đây với mẹ. Được như thế mẹ cũng đỡ đơn côi…Mẹ đã tác thành cho họ thành vợ thành chồng.
 Thuật lại cho cháu nghe những điều khiên cưỡng ấy, cậu Thế tìm lời an ủi cháu:
 – Chuyện đã xảy ra, mà chẳng ai có lỗi trong chuyện không vui này, tất thảy là ở như chiến tranh đưa lại. Nó mang lại cả cái mất lẫn cái được, nỗi buồn xen với niềm vui. Là người trong cuộc, cháu chịu thiệt thòi. Để an ủi cháu, người cậu dẫn ra trường hợp của mình. Với cậu mày đây lại cũng là do tình huống chiến tranh đưa đẩy, nhưng cậu lại là người đứng về phía cái được. Cậu bị thương khi đang ngồi trên mâm pháo. Một quả rốc két từ máy bay bắn xuống làm cậu dập nát một chân, vào quân y buộc phải tháo khớp, tháo sâu đến tận háng. Vậy thì còn mong gì đến vợ với con. Mợ mày, trước khi bị thương cậu đã ngỏ lời, nhưng cô ấy còn ngủng nguỷu để còn đếm đong kén chọn mà. Khi nghe tin cậu bị thương, chẳng đắn đo gì nữa, mợ mày lại chủ động tìm đến cậu. Đấy là điều bất ngờ, cũng là tình huống được chiến tranh đem lại.
Huỳnh đã ngồi lặng lẽ nghe, dẫu vậy tâm trí anh vẫn rối bời, vừa ngẩn ngơ tiếc nuối, vừa oán hận hờn ghen. Phải một khoảng thời gian ngồi ngơ ngẩn im lặng, chưa biết mình phải xử sự thế nào, anh mới cất được thành lời:
 – Giờ, cậu khuyên cháu là phải thế nào?
 – Cháu hỏi cậu là nên xử sự thế nào. Cậu chưa kịp nói với cháu là mẹ cháu đã mất. Bà được vợ cháu và người thương binh đó chăm sóc chu đáo tận tình cho đến lúc lâm chung. Vậy thì hãy xem những gì mà thời gian sắp đặt và chiến tranh tạo nên thành mọi sự đã an bài. Mày còn hoành tráng lắm, vẫn không sứt mẻ gì. Vậy là chiến tranh vẫn ưu ái cho mày để mày làm lại….
 – Chiến tranh ưu ái. Huỳnh đay lại lời cậu, rồi anh phá lên cười. Tiếng cười xen lẫn cả sự hài hước với nỗi niềm chua chát. Anh đứng phắt dậy kéo áo quân phục ra khỏi quần, rồi vén áo lên chỉ vào những vết sẹo chằng ngang, chằng dọc mà hậm hực: Cái áo cái quần nó che đi đấy, để người ngoài lầm tưởng. Đây, cậu nhìn xem mảnh đạn chém nát ổ bụng cháu rồi, phải nối tới ba đoạn ruột, lại gãy mất ba dẻ xương sườn, mà cũng còn chịu ơn thằng Tà Pinh nó che chắn phần đầu cho cháu. Nghe tiếng đề ba, tiếp đến là tiếng nổ của liều tăng tốc của viên đạn pháo đang nhằm đến đúng hướng, đúng tầm nơi cháu và Tà Pinh đang đứng. Nó chỉ kịp đẩy cháu ngã xuống rồi nằm che cho cháu. Còn nó, nó đã bị mảnh pháo chém đứt nửa người. Nay cháu còn sống, còn về đây với cậu là cháu phải mang ơn cái chết của Tà Pinh…
 Câu chuyện buồn lẫn vui trong thế thái nhân tình, sau bao ngày về lại đã chi phối Huỳnh, làm anh đã tạm quên đi cái bổn phận mà anh mang nặng tình với bạn. Nhớ tới bổn phận, Huỳnh nói với cậu:
 – Giờ, cháu phải đi. Đi ngay để đưa Tà Pinh về với người thân của nó.
***
 Huỳnh khoác lại ba lô lên vai, tay ôm lại chiếc túi du lịch vào lòng. Anh bước ra khỏi nhà cậu, lòng ngổn ngang, trĩu nặng những nỗi niềm….
 Ngày ấy. Nhớ về những đêm miền Đông mưa rừng rả rích. Hai chiếc võng mắc song song trong căn nhà hầm. Tà Pinh thường khoe với Huỳnh, vợ tao đẹp lắm. Con gái Kinh chúng mày, dễ gì đã sánh được bằng nó. Vậy mà tao ngỏ lời là nó theo tao liền đấy. Chúng tao yêu nhau mới một mùa soóng cọ là tao đòi cưới, nó làm bộ ngủng nguỷu. Tao còn bé, không cho mày cưới được đâu. Tao bảo: bé tao cũng cưới. Tao biết cái miệng nói vậy thôi chứ trong bụng nó cũng muốn mà. Người miền núi chúng tao trai gái lấy nhau sớm lắm, chẳng đứa nào chịu chờ đủ tuổi Nhà nước cho phép mới được cưới đâu. Vậy nên mới mười tám tuổi tao đã được làm bố mà. Mà là bố của thằng đực mộng mày ạ, mai này hết thằng giặc Mỹ trở về, mày cho vợ mày đẻ lấy đứa con gái, chúng mình sẽ làm thông gia nhé. Vậy lại càng vui đấy. Huỳnh hỏi lại bạn:
 – Tao nghe nói người Thanh Phán đã kết nghĩa đồng niên là coi nhau như anh em ruột thịt thì sao gả con cho nhau được.
 – Tao bất biết, Tà Pinh bảo, chúng mình phải cải cách nó đi chứ.
 Giờ nghĩ lại mảng hồi ức này khi mà anh mang Tà Pinh về với quê hương xứ sở, bạn chỉ còn là một mớ hài cốt xếp gọn gàng trong túi xách này. Lòng Huỳnh sao khỏi nao nao bồi hồi xúc cảm.
 Huỳnh mang hài cốt Tà Pinh về với người thân của anh làm xôn xao rung động lòng người từ ngõ gần, xóm xa, nơi miền quê heo hút. Tà Pinh hy sinh đã được gửi giấy báo tử về gia đình, đã được địa phương làm lễ truy điệu. Nỗi đau buồn ấy cũng đã nguôi ngoai vì thời gian đã qua đi vài năm. Nhưng nó vẫn là sự kiện đặc biệt khi mà cả chục người con trai của làng bản ra đi, rồi hy sinh đều nằm lại chiến trường. Họ thành vô danh chưa truy cứu ra danh phận, họ vẫn phải ẩn tích vô danh trong rừng hoang, trong các nghĩa trang quy tập. Với Tà Pinh là một nỗi đau, nhưng nó vẫn nhoáng lên niềm an ủi với người thân. Huỳnh ở lại với mẹ, với vợ con Tà Pinh suốt cả tháng trời để cùng địa phương làm lễ truy điệu, rồi an táng, lập mộ phần cho bạn. Xong việc ấy, anh lại lo việc đảo lại mái ràng ràng, dựng lại cây cột nhà bị mối xông, mọt đục…. Anh thành người mang hơi ấm về, như khơi lại bếp than của căn nhà bấy lâu thiếu vắng đàn ông. Anh làm hết thảy cái bổn phận mà nếu như còn sống trở về Tà Pinh phải làm. Khi Huỳnh đeo chiếc ba lô lên vai định từ biệt ra đi thì bà mẹ chạy theo níu lại:
 – Con đừng đi. Mẹ biết hoàn cảnh của con mà. Căn nhà này cũng cần hơi ấm của con mà.
 Huỳnh sững ra sau câu nói của mẹ. Những điều mẹ nói, anh chưa dám nghĩ đến trong đầu. Nhưng bằng linh cảm anh cũng biết trong căn nhà này còn có anh mắt khác vẫn lặng lẽ nhìn theo cách hành xử của anh.

Vannghemoi.com.vn − 05:55, ngày 26/04/2025, đăng bởi Phạm Ngọc Hiền