(Đọc tập truyện ngắn Tây sông Hậu những câu chuyện ngày qua…(Trần Bảo Định) (Đỗ Minh Tiến tuyển chọn), NXB Tổng hợp TP.HCM, 2025)
Trần Bảo Định là một trong những gương mặt tiêu biểu của văn xuôi Nam Bộ đầu thế kỷ XXI. Ông sinh năm 1944 nhưng đến với văn đàn khá muộn. Sau khi nghỉ hưu, ông mới bắt đầu sáng tác. Chỉ trong một thời gian ngắn, Trần Bảo Định đã liên tiếp công bố số lượng đầu sách khá đồ sộ. Tính từ năm 2012 đến nay, ông đã xuất bản 6 tập thơ, 17 tập văn xuôi, 7 tập tiểu luận phê bình…Tác phẩm của ông được đưa vào sách giáo khoa phổ thông và được rất nhiều luận văn nghiên cứu. Đỗ Minh Tiến đã tuyển chọn 21 truyện ngắn tiêu biểu của Trần Bảo Định để in trong tập Tây sông Hậu những câu chuyện ngày qua…Tập sách đã cho thấy phần nào văn phong của Trần Bảo Định và những sắc màu đa dạng của đất và người phương Nam.
1. Những trang viết lịch sử bằng văn chương
Truyện ngắn của Trần Bảo Định là có giá trị hiện thực cao. Mỗi câu chuyện đều cung cấp một thông tin bổ ích về lịch sử, văn hóa, xã hội. Một trong những nội dung thường được nhắc đến nhiều trong truyện của ông là lịch sử Nam Bộ. Trong truyện Tèn Hen huyền thoại núi Ba Thê, tác giả nhắc đến lịch sử nước Phù Nam: “Nửa đêm, kinh thành Đặc Mục bị quân Chân Lạp bất ngờ tấn công dữ dội, vua Phù Nam buông nàng Chey Sery, phóng mình lên yên ngựa chạy về hướng Nam đến thành Na Phất Na và sau đó, vương quốc Phù Nam bị sáp nhập vào nước Chân Lạp”. Để tăng tính chân thực của sự kiện, tác giả còn kèm thêm phần chú thích cuối trang sách: “Thành Đặc Mục (Vyadhapura) nghĩa là thành phố người đi săn gần ngọn núi Ba Phnom, Prây Veng. Sách Dị vật chí, của Dương Phù thời Đông Hán (25-220) là cuốn sách sớm nhất đề cập tới Phù Nam”. Trong tập sách, có rất nhiều sự kiện lịch sử, địa danh, từ ngữ… được tác giả chú thích kỹ lưỡng. Điều đó cho thấy tinh thần khảo cứu nghiêm túc của Trần Bảo Định.
Sự kiện Tây Sơn truy đuổi Nguyễn Ánh ở Nam Bộ đã được nhắc đến khá nhiều trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XIX đến những năm 1970. Sau đó, rất ít tác phẩm nhắc lại đề tài này. Trần Bảo Định có nhiều tác phẩm đề cập đến sự kiện Nguyễn Ánh ở Nam Bộ. Trước hết, tác giả dẫn lại các tích lưu truyền trong dân gian. Chẳng hạn như việc Nguyễn Ánh ra lệnh không được giết cọp (Truyền thuyết hổ sọc vằn). Trần Bảo Định nhắc đến các miếu thờ Gia Long ở Phú Quốc, Lấp Vò, Núi Cấm…(Thương quá bàn tay đen của má). Trong truyện Thắt lòng Ba Thắc, có đoạn giải thích nguồn gốc các địa danh: “Duyệt cõng Nguyễn Ánh đi trốn qua ngả cửa Trần Di. Và trước lúc đi, Nguyễn Ánh kịp đặt tên đầm nước ngọt là Đầm Tiên, rạch hoang nơi Ánh từng lủi trốn là rạch Long Ẩn”. Ở đây, Nguyễn Ánh được miêu tả từ góc độ văn chương nên gần gũi với đời thường. Chúa cũng có tâm thần bất định khi nhìn thấy người con gái xinh đẹp xuất hiện trong rừng bần: “Thủy Liễu ! T…h…ủ…y L…i…ễ…u… Nguyễn Ánh kêu thất thanh, long thể xuất hạn mồ hôi đầm đìa ! Từ đó, dân gian gọi cây bần là thủy liễu”. Đó là những tích truyện được tác giả khai thác từ văn hóa, văn nghệ dân gian. Sự kiện Tây Sơn – Nguyễn Ánh cũng được nhắc đến nhiều trong sách sử, với những ngày tháng, địa điểm đã khô cứng và trở thành công thức. Khi đưa lịch sử vào văn học, sự hơn kém của mỗi nhà văn là ở chỗ góc nhìn. Trong truyện Nồi cháo cá nửa đêm, nhân vật Chúa Định Vương đã nhìn nhận Tây Sơn như sau: “Biết lòng Nhạc, hiểu dạ Tây Sơn nên tới mùa đông cùng năm, cháu ta trốn chạy vô Gia Định (…) Ta gọi Nhạc là giặc Nhạc chẳng phải vô cớ, bởi Nhạc mượn cớ “Phò Đông cung Dương, diệt loạn thần Trương Phúc Loan” để lập chánh danh hòng thực hiện mưu đồ xóa chúa, diệt gia tộc”. Với những góc nhìn đa dạng, Trần Bảo Định đã làm sáng tỏ hơn nhân vật Nguyễn Ánh, vốn là hình tượng rất ít được nhắc đến trong văn học đương thời.
Lịch sử chống Pháp được đề cập đến trong rất nhiều tác phẩm. Nó bắt đầu từ “Đêm trầm hà ! Tiếng súng vu vơ từ đồn bót Tây dội về. Ba Láng qua rồi những ngày thanh bình khai hoang khẩn đất” (Ba Láng những ngày…). Tác giả đã nhắc đến hàng loạt tên tuổi chống Tây như: Đỗ Thừa Luông, Đỗ Thừa Tự, Thống chế Bút, Võ Đình Sâm… Và có biết bao nhiêu nghĩa sĩ đã hy sinh, như anh Năm Xồi, cô Sáu Huệ: “Cảm khái nghĩa khí, trân quý lòng chung thủy của những người con Ba Láng, ngày đó, dân trong vùng dựng ngôi miếu thờ, gọi là miếu Cô Cậu”. Tập truyện cũng đề cập đến lịch sử xây dựng Nam Bộ thời Pháp thuộc. Bên cạnh những quan chức, địa chủ ức hiếp dân lành như Hội đồng Hoạch, cũng có nhiều người để lại cho nhân dân những công trình có giá trị: “Hương quản Lộ để lại đời sau con rạch giúp người đi lại, sinh sống, kể cả vật nuôi, cây trồng” (Cô Hai rạch Quản Lộ). Khi viết về các vấn đề lịch sử, Trần Bảo Định cố gắng giữ một giọng văn trung tính, khách quan. Điều này cũng góp phần làm tăng giá trị hiện thực cho tác phẩm.
2. Bức tranh cuộc sống và phong tục Nam Bộ
Nam Bộ có nền văn hóa đa dạng, với nhiều dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng… Đến chợ nổi Ngã Năm, ta có thể gặp một thế giới đa dạng về xã hội Nam Bộ: “Tôi cảm nhận bà là người Việt lai Miên, còn ông là người Tiều lai Việt và việc thờ cúng trên ghe là tín ngưỡng hỗn dung của người miền Tây sông Hậu. Chợ Nổi Ngã Năm, quân ngũ nào đếm xuể xuồng ba lá, năm lá, ghe tam bản…với người tứ xứ: Cà Mau, Rạch Giá, Vĩnh Long, Cần Thơ tụ về (…) Tôi chợt nhận ra cái cốt cách người thương hồ: “Nhìn nhau cười, nhịn nhau sống” (Mãng cầu xiêm Ngã Năm). Đoạn văn cho thấy phần nào tính cách của người phương Nam: thoáng mở và năng động. Họ tiếp xúc đủ mọi hạng người, không phân biệt địa phương vùng miền. Và dĩ nhiên, cũng chấp nhận tất cả những tín ngưỡng, nếp sống văn hóa khác với mình. Bên cạnh sự dung hợp văn hóa từ các nơi khác, người Nam Bộ cũng hình thành những tín ngưỡng văn hóa mang bản sắc riêng của mình. Chẳng hạn như niềm tin vào “bịnh đàng dưới” mang màu sắc tâm linh vùng sông nước: “Kêu con Sáu, chị hỏi nó có làm rớt mất đồ xài cá nhơn, như: quần áo, khăn tay, hoặc nhẫn đeo…xuống sông rạch hay không (…) Nếu chẳng may bị ma quỷ chộp được đồ xài cá nhơn rớt mất thì nó sẽ đeo bám chủ nhơn để phá phách và hành hạ thân xác. Người ta gọi đó là bịnh “đàng dưới” (Ba Láng những ngày…). Chuyện này có liên quan tới tục thờ thủy thần vùng sông nước. Người Nam Bộ thờ cúng rất nhiều linh vật: rắn, cá sấu, cá ông, cọp beo… Thợ săn vùng Thất Sơn nhắc nhở điều kỳ lạ: “Muốn diệt hổ, phải lập miếu thờ hổ” (Truyền thuyết hổ sọc vằn).
Đi vào thế giới truyện ngắn của Trần Bảo Định, ta như lạc vào không gian sông nước miền Tây. Không chỉ miêu tả chuyện sông nước, tác giả còn cung cấp nhiều thông tin bổ ích về văn hóa và ngôn ngữ phương Nam. Đối với những người dân xứ khác, có thể những từ ngữ này khá lạ lẫm: bối (trộm cướp trên sông), bát (ghe đi phía hữu), cạy (ghe đi phía tả)… Trong Đêm phù sa châu thổ có đoạn: “Xuồng đang lướt mái chèo ngon trớn. Bỗng anh Sáu la thất thanh: “Bát ! Bát !…” âm vang giựt dội mặt nước. Chiếc ghe trước mũi chẳng những không chịu “cạy” mà nó lao xắn tới. Trên ghe lố nhố năm, bảy thằng bôi mặt giấu tông tích, chực chờ nhảy qua xuồng. Không kịp trở tay chèo, Tư la chói lói: “- Bối ! Bớ người ta, bối… b…ố…i…”. Sống trên sông nước gặp nhiều rủi ro. Sống bằng các nghề trên cạn cũng rủi ro không kém. Trong Cô Hai rạch Quản Lộ có nhắc đến người mẹ bị mù lòa do có thời gian dài làm nghề bóc vỏ hành: “Đôi mắt má bị mù sau những tháng năm bóc hành mướn ở Lộc Hòa quê ngoại. Vùng đất quê ngoại thuộc Vĩnh Châu nằm ven biển, nơi người dân chỉ sinh sống bằng một nghề duy nhất – nghề trồng hành tím. Gió cát, nắng nóng hừng hực, bụi đất, bụi vỏ hành, phấn hành, chất bảo quản củ, tinh dầu hành gây kích ứng phỏng giác mạc, lau mồ hôi, dụi mắt bằng tay bẩn…”. Đọc những câu chuyện đời thường cảm động như vậy, chúng ta có thể rút ra kinh nghiệm cho cá nhân mình. Truyện của Trần Bảo Định là những bài học bổ ích cho cuộc sống sinh hoạt hằng ngày.
3. Bức tranh thiên nhiên miền Tây Nam Bộ
Thiên nhiên miền Tây Nam Bộ có những nét đặc trưng, không giống với những vùng đất khác trên mảnh đất dài cong hình chữ S. Miền Tây có nhiều sông rạch. Chúng có ảnh hưởng lớn đến nếp sinh hoạt, lao động và nhận thức con người. Hoạt động của con người lệ thuộc vào con nước: “Dân mình thường bấm đốt tay tính trăng bằng con nước rong, nước kém (…) Trong tháng, con nước có hai lần rong – kém nhưng trăng thì không chỉ một đêm mà nhiều đêm, dài tới tuần trăng (…) Mùa trăng khởi từ con nước rong giữa tháng và nó đã dệt từng sợi tơ vàng thơ mộng buộc ràng cái hữu tình của khách thương hồ trên kinh xáng Xà No” (Trăng Hậu Giang). Thời tiết và sông nước vùng sông Hậu cũng ảnh hưởng đến tín ngưỡng văn hóa của người Việt và Khmer. Các lễ hội tôn giáo thường có kết hợp với việc cầu mưa thuận gió hòa: “Tháng Mười, mưa Bãi Xàu có khi ào ào đột ngột rồi tạnh rất mau, nắng ráo. Cũng có khi trời gầm gừ bắt nạt rồi tỉnh khô, chẳng mưa. Nhà nông Bãi Xàu chẳng biết đâu mà lần. Do đó, hằng năm, xong vụ mùa gặt, mọi người hớn hở, nô nức chờ đợi cúng “Thần Trăng” bằng lễ vật cốm dẹp nếp Nàng Quớt vào ngày rằm tháng Mười như một biểu tượng tạ ơn và cầu mưa thuận gió hòa” (Gạo nếp quê chồng). Việc mưa nắng và lễ hội được diễn ra khách quan, chân thực trong cuộc sống đời thường. Nhưng dưới ngòi bút của Trần Bảo Định, nó mang màu sắc huyền ảo, gắn với văn hóa tâm linh.
Thuở xưa, khi mới đặt chân đến vùng đất Nam Bộ, lưu dân Việt rất lo sợ, khổ sở trước thiên nhiên hoang dã, nhiều thú dữ: “Đồng Nai xứ sở lạ lùng / Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um”. Vùng đất mới có nhiều động vật gây khó khăn cho con người như các loài rắn, muỗi, đỉa… nhưng đáng sợ hơn cả là cá sấu và cọp beo. Truyện của Trần Bảo Định cũng đề cập đến nỗi ám ảnh về cá sấu và cọp beo. Trong Ba Láng những ngày…, ông có nhắc lại truyện cổ dân gian Cá sấu mê hát bội: “Tại vàm sông Cần Thơ, hồi lưu dân tới khẩn hoang, lập điền, có con sấu lớn thiệt lớn bằng cái xuồng tam bản, nó rất dữ ác và thích ăn thịt người. Tuy vậy, nó lại rất khoái coi hát bội. Một lần, bất thần con sấu quẫy đuôi đánh úp ghe đám cưới qua khúc sông nó trú ngụ và cô dâu bị nó gắp ăn thịt”. Chàng rể quyết tâm tiêu diệt cá sấu. Chàng thuê một gánh hát bội để dụ cá sấu tới xem và cùng dân làng giết nó. Các bộ phận cơ thể con cá sấu trở thành các địa danh ở đất Cần Thơ ngày nay: “Rạch Đầu Sấu là chỗ cái đầu Sấu trôi tới, rạch Cái Da là chỗ da sấu trôi tấp vô, chợ Cái Răng là chỗ bộ răng sấu trôi vướng chà cây”. Thiên nhiên trong truyện của Trần Bảo Định mang màu sắc văn hóa tâm linh. Trong Truyền thuyết hổ sọc vằn, con vật cũng có đời sống tâm linh như con người. Chúng có những luật lệ bất thành văn mà chỉ có người dân địa phương mới hiểu được: “Vách đá dội tiếng gầm không pha trộn âm thanh gừ vang xa. Và người sống quanh vùng Thất Sơn điều biết đấy là tiếng gọi bạn tình của con hổ cái nào đó. Bởi gầm gừ báo hiệu cuộc đối đầu. Nhưng gầm không gừ báo hiệu sự thèm khát dục tình ân ái (…) Đời hổ đực là vậy, khi vợ có mang cũng là lúc chồng đành lánh sang xứ khác”.
4. Phương ngữ Nam Bộ và những sáng tạo ngôn từ
Để thể hiện được màu sắc Nam Bộ trong cảnh vật và con người, tác giả cũng phải sử dụng phương ngữ Nam Bộ. Trần Bảo Định không gặp khó khăn về điều này vì suốt đời, ông sống ở Nam Bộ. Phương ngữ Nam Bộ đi vào trang văn của Trần Bảo Định rất tự nhiên và nhuần nhuyễn: “Mèng đéc ! Chú em ơi ! Đó là bẹo lá bán xuồng chớ nào phải bẹo lá bán lá lợp nhà” (Mãng cầu xiêm Ngã Năm), “Đời nghèo, ba má lắm gieo neo, dắt díu nhau tới kinh Bảy Ngàn mần thuê mướn, nghèo hườn nghèo, khó hườn khó (…) Mèn đét, nãy giờ mình chú em chơi ráo nạo nửa lít đế ngâm bìm bịp của qua” (Trăng Hậu Giang), “Hồi còn sanh tiền, má thường nhỏ to với nó: “Dạo tía mày còn ở nhà, ổng ghét nhất đứa nào “cà kê dê ngỗng” (Lão Dê)… Ngoài những từ ngữ Nam Bộ, ta còn thấy có các kiểu cấu trúc câu của phương ngữ Nam Bộ: “Sắp mưa, anh Sáu không kêu mình che đậy, rủi đồ đạc, hàng bông ướt ráo nạo, sao trời ! Thình lình, trời ngưng gầm gừ sấm nổ, tự dưng chớp giựt lặng trang (…) Tính ra thì Tư Chìa Vô đã đi bạn với anh Sáu hơn ba cái Tết. Tư quen dần cảnh vật, nếp sống, sông nước miền Nam. Anh Sáu nhiều lần nhắc nhở: “Cần “để”, không cần “giữ” ý tứ. Nhiêu đó đủ hòa nhau và được thuận lòng” (Đêm phù sa châu thổ)
Trần Bảo Định không chỉ tái hiện thành công phương ngữ Nam Bộ mà còn sáng tạo ra những cách diễn mới mẻ. Những từ ngữ Nam Bộ được “lạ hóa” như ngôn ngữ thơ: “Ngoài vườn nhãn, chiều rớt chiều xôn xao gió biển” (Bạc Liêu nhãn đầu mùa), “Đêm Bãi Xàu dài thậm thượt (…) Tiếng còi tàu khách xé không gian đêm rớt lả tả cầu tàu Bãi Xàu” (Gạo nếp quê chồng). “Ngoài cửa sông, nước bồng sóng mênh mông và nắng đầm lầy rỉa lá rừng mắm trải xanh chiều sụp mí biển !” (Quả báo), “Mắt treo chiều, men rượu nhẹ như hơi sương và ngoài kia, cánh đồng lúa Tri Tôn nghiêng bóng nắng Thất Sơn” (Truyền thuyết hổ sọc vằn)… Ta biết rằng Trần Bảo Định cũng là nhà thơ. Bởi vậy, ngôn ngữ thơ đã được chuyển hóa vào văn xuôi của ông. Ngoài những câu diễn đạt như thơ, truyện của ông còn có vô số ca dao, tục ngữ… Ngôn ngữ truyện của ông có sự hòa trộn văn và thơ.
Có thể nói, 21 truyện ngắn trong tập Tây sông Hậu những câu chuyện ngày qua…chưa bao quát hết các nội dung và chưa cho thấy hết những đặc sắc trong thế giới nghệ thuật của Trần Bảo Định. Nhưng nó cũng giúp ta hiểu được phần nào văn phong của ông cũng như những sắc màu của đất và người phương Nam. Trần Bảo Định cũng như nhiều nhà văn Nam Bộ đương thời đang nỗ lực níu giữ lại hồn cốt của vùng đất ở cuối trời Tổ quốc. Vùng đất này đang đổi thay nhanh chóng. Nhiệm vụ của các nghệ sĩ là lưu giữ bản sắc riêng độc đáo của nó. Và đó cũng là cách để lưu giữ những nét riêng trong trang viết của mình.
PHẠM NGỌC HIỀN