Trước yêu cầu lịch sử bức xúc về sự tự vận động đổi mới trong thi ca khoảng vài ba mươi năm trước năm 1940 của thế kỷ XX, thì năm 1941 Mùa Cổ Điển (Quách Tấn) ra trình làng. Liền sau đó, đầu năm 1942 Hoài Thanh và Hoài Chân định vị thi sĩ Quách Tấn trong Thi Nhân Việt Nam.

Nếu Thi Nhân Việt Nam là tập sách nghiên cứu, giới thiệu và tuyển thơ của hơn 40 nhà thơ nổi trội của phong trào Thơ mới, thì tập thơ tiêu biểu tiếp nối cái cũ và hội nhập cái mới, vinh dự thuộc về Mùa Cổ Điển, tác phẩm “khép lại” (Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội, 1994, tr. 28) một thời thơ.                

Một thời thơ được hiểu là một thời đại trong thi ca, có thể trên mười năm, hoặc một thời đại chẵn mười năm – như hai tác giả của Thi Nhân Việt Nam nhận định – mà đặc điểm là: “Trong mười mấy năm ấy, thơ mới đã đấu tranh gắt gao với thơ cũ, một bên giành quyền sống, một bên giữ quyền sống. Cuộc tranh đấu kéo dài cho đến ngày thơ mới toàn thắng”.  

Thơ ca là nơi ký thác tâm hồn. Trước hết, mạch chảy bắt nguồn từ tư tưởng nhân văn trong văn học Việt Nam cố vùng vẫy để thoát khỏi ràng buộc của tính phi ngã, gặp trào lưu nhân văn mới về tư tưởng giải phóng cá nhân, giải phóng cá tính sáng tạo. Trong Thi Nhân Việt Nam, khi luận về một thời đại trong thi ca, Hoài Thanh nhận xét: “Sự gặpgỡ phương Tây là cuộc biến thiên lớn nhất lịch sử Việt Nam từ mấy mươi thế kỷ”. Nơi gặp gỡ, giao lưu này dưới ánh sáng tư tưởng nhân văn mới, thế hệ thi nhân chối bỏ kiểu tư duy nghệ thuật giáo điều, khuôn sáo hóa, không có sinh khí, đưa thi ca Việt Nam vươn mình đến một cuộc cách mạng, để lại trên lịch sử thi ca những chứng tích giữa cuộc tranh đấu thơ cũ và thơ mới. 

Lịch sử phát sinh Thơ mới sự thật là đã có nền móng từ trước. Trước năm 1932, Tản Đà đã có bài: Cảm thu, tiễn thu hình thức cũng mới: 

Từ vào thu đến nay

Gió thu hiu hắt

Sương thu lạnh

Trăng thu bạch

Khói thu xây thành

Lá thu rơi rụng đầu gành

Sương thu tiễn lá bao ngành biệt ly.

   …

Hoặc bài Tống biệt sau đây:

Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai

Suối tiễn oanh đưa những ngậm ngùi

Nửa năm tiên cảnh

Một bước trần ai

Ước cũ duyên thừa có thế thôi

Đá mòn, rêu nhạt

Nước chảy, huê trôi

Cái hạc bay lên vút tận trời

Trời đất từ nay xa cách mãi

Cửa động

Đầu non

Đường lối cũ

Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi.  

Với giọng điệu phóng túng riêng của những bài thơ trên, phải chăng “tiên sinh đãdạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kỳ đang sắp sửa”? 

Nếu từ năm 1917 là thời kỳ thai nghén thì năm 1932 là thời kỳ thoát thai của Thơ mới. Tiếng khóc chào đời đầu tiên là tiếng khóc Tình già  của đứa con Phan Khôi (Tình già – Phan Khôi được ra mắt bạn đọc Phụ Nữ Tân Văn số 122 ngày 10/3/1932 cùng với bài giới thiệu lấy tên: Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ

Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa.

Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ, hai cái đầu xanh, kề nhau than thở: “Ôi đôi ta, tình thương nhau thì vẫn nặng, mà lấy nhau hẳn là không đặng. Để đến nỗi tình trước phụ sau, chi cho bằng sớm lựa mà buông nhau!”

“Hay! Nói mới bạc làm sao chớ! Buông nhau làm sao cho nỡ? Thương được chừng nào hay chừng ấy, chẳng qua ông trời bắt đôi ta phải vậy. Ta là nhân ngãi, đâu có phải vợ chồng mà tính chuyện thủy chung!”. Hai mươi bốn năm sau, tình cờ đất khách gặp nhau. Đôi cái đầu đều bạc. Nếu chẳng quen lung đó, đố có nhìn ra được! Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi con mắt còn có đuôi.). Đứa con Tình già ấy có thể coi là tên lính xung phong vào thành trì thơ cũ, mạnh dạn đoạn tuyệt tình xưa. 

Trong Thi Nhân Việt Nam, Hoài Thanh viết: “Phương Tây bây giờ đã đi tới chỗ sâu nhất trong tâm hồn ta. Ta không còn có thể vui cái vui ngày trước, buồn cái buồn ngày trước, yêu ghét giận hờn nhất nhất như ngày trước. Đã đành ta chỉ có chừng ấy mối tình như con người muôn nơi và muôn thuở. Nhưng sống trên đất nước Việt Nam ở đầu thế kỷ 20 những mối tình của ta không khỏi có cái màu sắc riêng, cái dáng dấp riêng của thời đại (…) Tình chúng ta đã đổi mới, thơ chúng ta cũng phải đổi mới vậy. Cái khát vọng cởi trói cho thi ca chỉ là cái khát vọng nói rõ những điều kín nhiệm u uất, cái khát vọng được thành thật”. Nỗi khát vọng khẩn thiết đến đau lòng! Chính ông Lưu Trọng Lư đã viết trong quyển Người Sơn Nhân hồi tháng 5/1933: “Người thanh niên Việt Nam ngày nay đương bơ vơ đi tìm người thi nhân của mình như người đi tìm mẹ”(Thi Nhân Việt Nam, tr.17). 

Do đó, sẽ là thiếu sót nghiêm trọng trong khảo luận về Thơ mới, nếu không đề cập đến thế hệ thi nhân mới. 

Như chúng ta biết, Thơ mới với sự chối bỏ mạnh mẽ kiểu tư duy nghệ thuật mang tính phi ngã, sáo rỗng của lối thơ cũ tai hại đang ngự trị trên thi đàn Việt Nam lúc bấy giờ, và hướng thi ca đi vào con người cá nhân và cảm xúc mới đã mở đường cho sự giải phóng cá tính sáng tạo, góp phần quyết định đem lại sinh khí văn học nói chung, cho thi ca nói riêng. 

Trước hết, xin đề cập đến khía cạnh: Thế hệ thi nhân mới với việc ngày càng định rõ phạm vi chống cái cũ trong thi ca lúc bấy giờ. 

Có thể nói, trước yêu cầu lịch sử khẩn thiết về sự vận động đổi mới trong thi ca, thế hệ thi nhân mới cần phải chống lại lối thơ cũ tai hại không có sắc thái cá tính sáng tạo (một lối thơ rất thịnh hành trong vài ba mươi năm trước đó). Trong Thi Nhân Việt Nam, Hoài Thanh viết: “Vẫn biết trong lối thơ ấy cũng đã sản xuất ít bài có giá trị, song những bài ấy thưa thớt quá không che được cái tầm thường mong manh, cái trống rỗng đồ sộ đương ngự trị trên thi đàn Việt Nam. Tinh thần lối thơ ấy đã chết, họ phải thoát ly ra khỏi xác chết để tìm một đường sống. Không biết gọi xác chết ấy thế nào, họ đặt liều cho cái tên: Thơ cũ. Chữ dùng có thể sai nhưng nguyện vọng của họ rất chính đáng. Có bao giờ họ xâm phạm đến các thi hào đời xưa đâu, mà họ phải bênh vực. Họ chỉ công kích một lối thơ gần đây, một lối thơ tai hại, nó vẫn giống thơ Lý, Đỗ. Như cái nhăn mặt của Đông Thi vẫn giống cái nhăn mặt của Tây Thi vậy! Họ không muốn nhăn mặt, sợ mang cái dạicủa Đông Thi. Họ tìm những vẻ đẹp khác. Thơ mới đã ra đời”(Thi nhân Việt Nam, tr.40, 41). 

Trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy số 27, tháng 12/1934, Lưu Trọng Lư quả quyết “thơca ta ngày nay đang ngắc ngoải, không còn một chút sinh khí đang triền miên trong cõichết. Rặt những câu trần ngôn sáo ngữ, đúc đi đúc lại từ xưa đến nay, không thêm bớt,không sứt mẻ”. Năm 1935 Thế Lữ phê bình tập thơ Những bông hoa cuối mùa, nhân đó bài xích thơ cũ: “Cái tài của các ông là cái tài xào nấu lại các món ăn cũ. Các ông lấy lời văn, ý tưởng, tình cảm của người khác làm của mình. Trong thơ của các ông đầy rẫy những cảnh tuyết, mai, thông, cúc, chỉ quanh quẩn ở những điển tích mà đã thấy nghìn lần người ta nhắc đến nghe quen tai quá”. Đó là những hồi chuông báo động khẩn thiết cảnh tỉnh làng thơ giữa lúc “đang triền miên trong cõi chết” mà nguyên nhân trước tiên là sự tê liệt cảm xúc. Vì vậy cũng trong phần phê bình tập thơ trên, Thế Lữ viết: “Các ông khen âm điệu thơ cũ thánh thoát, thâm trầm từ tiếng đàn năm cung. Không ai cãi lại hai ông, nhưng tiếc rằng khi nghĩ đến đàn, các ông lại nghĩ đến tính tình của người khác xúc động bằng tâm hồn của người khác, vì trong lòng các ông không có một cảm xúcriêng nào”. Đây là một tai hại lớn giết chết thơ ca. Bởi tiếng thơ không xuất phát từ tiếng lòng, bởi tiếng thơ không quay về với tiếng nói độc bạch nội tâm. Bởi không xuất phát từ quy luật tình cảm với tư cách là một quy luật đặc thù của hoạt động văn học, nghệ thuật. Và bởi không có sắc thái cá tính sáng tạo độc đáo, riêng biệt. 

Tóm lại, thế hệ thi nhân mới không hề có chủ trương chống lại các thi hào đời xưa, không cắt đứt với quá khứ, mà chỉ chống cái sáo cũ mang tính phi ngã, không có sắc thái cá tính sáng tạo trong thi ca lúc bấy giờ. 

Kế tiếp, xin đề cập đến khía cạnh thứ hai: Thế hệ thi nhân mới với cảm xúc mới trong sáng tạo. 

Như chúng ta biết, thế hệ thi nhân mới là thế hệ của lớp người trẻ, có tài, không ít người có trình độ học vấn cao. Có thể nói một nguyên nhân về sự ra đời và trưởng thành của thế hệ thi nhân mới này là vấn đề giao lưu, hội nhập. Tại đây – nơi giao lưu, gặp gỡ này – ngọn gió lành đi qua miền sa mạc, những dòng sông gặp gỡ những dòng sông. Tại đây, chủ nghĩa nhân văn mới mang hơi thở thời đại là nơi gặp gỡ giữa truyền thống và hiện đại, chuyển lưu thành cảm xúc mới – hướng nội trong sáng tạo. Tại đây, thế hệ thi nhân mới ít nhiều có ảnh hưởng Pháp. Trong Thi Nhân Việt Nam Hoài Thanh viết: “Thơ Việt đã diễn lại trong mười năm cái lịch sử một trăm năm của thơ Pháp, từ lãng mạn đến Thi Sơn, tượng trưng và những nhà thơ sau tượng trưng (…). Thơ tượng trưng được người ta thích hơn, nhất là Baudelaire, người đầu tiên đã khơi nguồn thơ ấy. Có thể nói hầu hếtcác nhà thơ (…) không nhiều thì ít đều bị ám ảnh vì Baudelaire” (Thi nhân Việt Nam, tr.15). Xuân Diệu, nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới cũng là người chịu ảnh hưởng Baudelaire sâu sắc nhất.         

Điều ấy hẳn không phải ngẫu nhiên. Tác giả Thi Nhân Việt Nam hình như đã phần nào nhận ra lý do, khi nhận xét: “Hai lối thơ (thơ Đường và thơ tượng trưng Pháp) có chỗ giống nhau, hai lối thơ đều ghét lý luận, ghét kể chuyện, ghét tả chân”. 

Cần nói thêm rằng, trong bài viết Kế thừa truyền thống dân tộc trong đổi mới thơ ca qua kinh nghiệm lịch sử của phong trào Thơ mới (Tạp chí Văn học, tháng 11/1994), GS. Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét: “Hai lối thơ đều muốn đi tìm và diễn tả những gì thật sâu xa có tính khái quát triết lý nhưng vô hình ẩn đằng sau những tương quan hữu hình của thế giới này. Hai lối thơ đều đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật thi ca nhờ ngôn ngữ tinh luyện, hàm súc, có khả năng diễn tả được những biến thái (nuances) hết sức tinh vi của tạo vật và con người”. 

Vậy là Thơ mới đã tìm đến trường thơ tượng trưng của Pháp (tượng trưng Baudelaire, Verlaine hơn là tượng trưng Mallarme) nhất là tìm đến nơi hội ngộ tuyệt vời giữa tư duy thơ truyền thống nghìn xưa của phương Đông với tư duy thơ hiện đại của phương Tây. Tại đây nhận ra một điều có tính quy luật: “Mọi đổi mới đều không thể cắt đứt với quá khứ, dù là quá khứ hết sức xa xưa”. 

Tại đây, xuất hiện vấn đề cảm xúc mới sáng tạo của thi phẩm trong phong trào Thơ mới. Khác với lối thơ cũ đang ngự trị trên thi đàn Việt Nam lúc bấy giờ chuyên vay mượn cảm xúc của người khác chẳng khác nào như hình xác con bướm ép trên trang sách, thi phẩm của phong trào Thơ mới ít nhiều đều chứa đựng cảm xúc riêng và ý thức mới về con người – cá nhân. Riêng ý thức mới về con người – cá nhân, một vấn đề thuộc hệ tư tưởng của Thơ mới, giữ vai trò quyết định việc Thơ mới có mới hay không, được Hoài Thanh thẩm định trong Thi Nhân Việt Nam. Ông viết: “Cứ đại thể thì tất cả tinh thần thời xưahay thơ cũ và thời nay hay thơ mới có thể gồm hai chữ TÔI và TA. Ngày trước là chữTA, bây giờ là chữ TÔI”. Cũng trên tinh thần này, GS. Nguyễn Đăng Mạnh có cơ sở để nói rằng: “Thơ mới là tiếng nói của cái TÔI cá nhân, cá thể (individu)”. Đó là nói đến hệ tư tưởng, ý thức triết học của Thơ mới. Còn cảm xúc mới nói đến ở đây với tư cách là một đặc trưng của hoạt động sáng tạo văn học và là văn học mới – thơ mới – được xem là phần nền của cá tính sáng tạo trong thi phẩm của phong trào Thơ mới. Vì thơ mới ở nước ta chịu ảnh hưởng chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tượng trưng, và những nhà thơ sau tượng trưng, nên tính chất của cảm xúc mới trong sáng tạo thường có: tính chân thực, lãng mạn, phân thân tự bạch, đặc biệt tính hướng nội với trọng lực nghiêng về chủ thể là một đặc trưng mang tính khác biệt đặc thù để nhận diện cảm xúc mới của Thơ mới. 

Với ý nghĩa đó, bắt gặp đâu đây cảm xúc mới trong hình ảnh “những luồng runrẩy, rung rinh lá – Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh” trong Đây mùa thu tới của Xuân Diệu.  Ở đây, “những luồng run rẩy” là cảm xúc riêng, rất Xuân Diệu. Một người có cá tính “thiết tha, rạo rực lẽ yêu đời” như Xuân Diệu vẫn có những giây phút băn khoăn về “khí trời u uất hận chia ly”, ghi dấu ấn trong Đây mùa thu tới, để lại trong lòng người “nỗi buồn không nói”, làm nên cảm hứng chủ đạo của bài thơ này, mà mạch cảm xúc bắt nguồn từ bên trong chủ thể trữ tình lan tỏa, tương hợp với thiên nhiên, vạn vật, đất trời mùa thu. Biểu hiện mang tính chủ thể ở chỗ này là liễu rủ buồn: 

Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,

Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng;

Đây mùa thu tới – mùa thu tới

Với áo mơ phai dệt lá vàng.

Ở chỗ kia, hơn một loài hoa tả tơi, rơi rụng: 

Hơn một loài hoa đã rụng cành

Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh

Những luồng run rẩy rung rinh lá…

Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh. 

Và xa xa trong sương mờ:

Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ

Non xa khởi sự nhạt sương mờ

Đã nghe rét mướt luồn trong gió

Đã vắng người sang những chuyến đò. 

Sau cùng kết thúc bài thơ cảm hứng chủ đạo tụ lại ở nỗi “buồn không nói” và “hận chia ly”:

Mây vẩn tầng không chim bay đi

Khí trời u uất hận chia ly

Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói

Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì.

Trở lại cảm xúc mới trong hình ảnh “những luồng run rẩy rung rinh lá – Đôinhánh khô gầy xương mỏng manh”. Đối với Thơ mới, điều quan trọng không phải là thế giới hiện ra cho chúng ta, mà là thế giới nghiệm sinh của chúng ta. Ở đó “thế giới ấytượng trưng cho chiều sâu về cuộc đời và thơ là sự vận động tâm linh của chúng ta đối với thế giới ấy”. Do đó, điều quan tâm lớn nhất của nhà Thơ mới là sự vận động của tâm linh, là tính hướng nội với trọng lực nghiêng về chủ thể. Vì vậy sẽ là phi lý nếu nghĩ rằng “những luồng run rẩy rung rinh lá” là hình ảnh thế giới hiện ra cho chúng ta, thế giới của thiên nhiên, vạn vật, đất trời mùa thu (?!). Mà không nghĩ rằng hình ảnh “những luồng run rẩy…” chính là cảm xúc riêng mang tính tâm trạng, hoàn toàn cá nhân. Đó là cảm xúc mới – hướng nội.

Tóm lại, thế hệ thi nhân mới trước hết với việc ngày càng định rõ phạm vi chống lại những khuôn sáo cũ trong thi ca lúc bấy giờ, và sau nữa xây dựng cảm xúc mới trong sáng tạo có ý nghĩa quyết định trong việc tạo nên chất mới của thơ mới xứng đáng với vai trò lịch sử: Một cuộc cách mạng về thơ ca mà hạt nhân của nó là ý thức mới về con người – cá nhân và cảm xúc mới – hướng nội. 

Đến cuối “một thời đạitrong thi ca”, nhà thơ mới Chế Lan Viên trân trọng giới thiệu, viết tựa cho Mùa Cổ Điển. Một vinh dự đến với tập thơ này: “Làng Thơ mới tự mình mở cửa đón mời một người cũ. Họ không nói chuyện hơn thua nữa. Thực hành một ý kiến phát biểu ra từ trước, họ nhã nhặn bỏ luôn cả cái danh hiệu thơ mới, từ nay thơ họ chỉ gọi là Thơ”(Thi Nhân Việt Nam, tr.29, 30).