/
.
Nguyễn Trí sinh năm 1956 tại Bình Định, quê gốc Quảng Bình. Ông từng kinh qua đủ nghề như đãi vàng, đá quý, khai thác trầm hương, đốt than, nấu rượu lậu, chạy xe ôm, sáng dạy Anh văn tối làm đồ tể,… Nhờ những năm tháng bươn chải mưu sinh, Nguyễn Trí có được vốn sống phong phú và độc đáo đã làm nên một “hiện tượng” lạ trên văn đàn dân tộc những năm vừa qua với tập truyện ngắn “Bãi vàng, đá quý, trầm hương”. Với ấn phẩm đầu tay này, năm 2013, ông được Hội nhà văn trao giải thưởng Văn học Việt Nam. Từ đó đến nay, ông đã xuất bản thêm tập truyện ngắn “Đồ tể” và tiểu thuyết “Thiên đường ảo vọng”. Tác phẩm của ông mang đến cho người người đọc sự trải nghiệm thú vị về thế giới giang hồ tứ chiếng, đồng thời tạo lập được thế giới nhân vật đa dạng và phong phú.
        Nhân vật là yếu tố quan trọng hàng đầu của tác phẩm văn học. Nhân vật văn học chính là “con người cụ thể được miêu tả trong văn học”[3, tr.235]. Nhân vật văn học có chức năng khái quát hiện thực, thể hiện rõ tư tưởng, khả năng chiếm lĩnh đời sống, quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn.
        Kiểu nhân vật giang hồ là một một kiểu nhân vật đặc biệt, xuất hiện nhiều và độc đáo nhất trong sáng tác của Nguyễn Trí. Kiểu nhân vật này chính là hiện thân của con người lý tưởng , thể hiện “ngưỡng cảm nhận” trong tâm thức thẫm mỹ của nhà văn.
Hình tượng người “anh hùng” của Bến Tắm ngựa – nơi tập trung những con người khổ nhất gầm trời -được Nguyễn Trí tập trung khắc họa không chỉ ở phương diện hành động bên ngoài mà còn miêu tả đời sống nội tâm sâu sắc bên trong. Điều này tạo nên cho mỗi nhân vật của ông không chỉ có bề rộng mà còn có bề sâu, không chỉ có những nét tính cách phổ quát của người giang hồ nói chung mà còn có những nét cá tính mạnh mẽ, rất riêng. Vì vậy, khi viết về giới giang hồ, Nguyễn Trí đã thành công trong việc tạo được những nhân vật mang tình điển hình.
 Đầu tiên, những nhân vật này luôn là những người không có một quê hương, chốn ở xác định. Tuy không cố định về nhà cửa và nơi nào cũng là quê hương nhưng ta không thấy ở họ cái vẻ phiêu bạt tha phương cầu thực của những kẻ sa cơ lỡ vận. Trái lại, họ lựa chọn lối sống chủ động dấn thân để thỏa cái chí bôn ba ngao du nơi sông dài bể rộng và sẵn sàng đón đợi mọi thách thức. Nhân vật Thành Bụi trong truyện ngắn Bãi vàng xuất hiện ở Bãi X bằng một vẻ giang hồ đúng nghĩa với tư trang chỉ một cái ba lô cóc. Thành vốn xuất thân là con nhà nòi thượng võ, thuở nhỏ, anh ngang tàng, thích “thượng cẳng chân, hạ cẳng tay” nên sớm bỏ bê việc học văn hóa. Biết tính con, cha Thành đến dọa ra mặt với thầy dạy võ mà rằng: “Nó ăn rồi chuyên đi đập lộn, ông dạy nó có ngày mang họa” [4, tr.11]. Không dạy, nhưng Thành học lỏm. Đến mười bảy tuổi, anh có lịch sử trận đài đáng nể với bất kì tay đấm nào: đánh mười bốn trận, knock-out bảy, sáu ăn điểm, một huề. Nối tiếp cuộc đời Thành là ngót ba năm trong tù vì cờ bạc bịp, trầm luân trong những bãi tìm trầm mà tên gọi đã gợi sự xa xôi trắc trở như Tà In, Suối Ty, Chưprông… Đến bãi X, nhân vật Thành Bụi cho những “da xanh”, “tóc dài” ở bãi mãn nhãn và cũng để khẳng định vị thế “vua bãi” của mình bằng việc hạ gục nhân vật Đào Ba Lan trong màn đấu võ gây cấn. Cũng như Thành Bụi, nhân vật Minh Tàn trong truyện Giã từ vàng là nhân vật giang hồ từ tấm bé, cũng nhờ đi bụi, nhờ đời dạy mà rèn cho anh khả năng nhanh mắt, nhanh tay chẳng ai bằng, nhất là trong những trận so kè võ nghệ. Minh Tàn cũng uy danh một cõi với thành tích từng chém những đàn anh, đàn chị ở những nơi mình đã qua. Nhân vật Thu Râu trong truyện Đá quý cũng được miêu tả là một “trưởng mâm” vai u thịt bắp, lực lưỡng với võ nghệ kha khá và đủ sức để hơn thua với những gian manh nơi rừng núi thâm u. Nguyễn Trí xây dựng những nhân vật thuộc kiểu “anh hùng” phu bãi không chỉ quan tâm đến vẻ bụi bặm của hình dáng, vẻ cường tráng lực lưỡng của thân thể mà còn đặc tả về tài năng võ nghệ của họ. Võ nghệ là phẩm chất không thể thiếu để các nhân vật tự khẳng định vị thế của mình.
Ngoài ra, nhân vật “anh hùng” luôn được Nguyễn Trí miêu tả là những người “nghệ sĩ” thực thụ trong cái nghiệp mà họ đang phải dấn thân. Để khắc họa đặc điểm này, Nguyễn Trí dành nhiều công sức để miêu tả chi tiết sự gian khổ, hiểm nguy của những nghề cần lắm sự công phu, nhất là phu vàng: “Bổi không là đất bình thường. Vàng sa khoáng giấu mình trong đá thạch anh. Thạch anh đa chủng loại, có loại dai như đỉa đánh không vỡ, có loại cứng như đá tảng, loại giòn như bánh tráng…Búa và chạm gõ cóc cách suốt đêm trường, dưới bàn tọa là nước, trước mặt là ngọn đèn 100w hừng hực”[4, tr.20] và “hầm luôn bị sạt lở. Mưa đến, chết vì sập hầm thường lắm. Buổi sáng còn chung nhau ly rượu, chiều không thấy mặt là biết đã về đất”[4, tr59]. Để sống được với nghiệp làm phu, họ phải là những “anh hùng” đủ tài, lắm nghề, phải là dân thiện chiến và có nhãn quan nghề nghiệp tinh tường. Giỏi nghề cũng là một tiêu chuẩn để được tôn lên làm “vua bãi”. Nhân vật Thành trong truyện Bãi vàng là một trong những người cầm trịch mang tính lí tưởng đối với những phu vàng khác. Vì vậy, không chỉ có màn “chào” bãi bằng màn võ thuật ấn tượng, nhân vật Thành Bụi được Nguyễn Trí miêu tả là người chuyên giải quyết những “ca” khó như hầm sập hay khui hầm trong mùa mưa bão. Thế nên, mới đến nhưng Thành đã “tay cầm búa và chạm chủ lực trong nhóm Hiếu Râu. Ca đầu tiên ra mắt Thành vung búa mười bao”[4, tr.20].
Ở vùng đất mà chết chóc trở nên bình thường như chân lí hiển nhiên, chết vì hầm sập hay xung đột bè phái đều được quy về một nguyên do sốt rét nên khi đối diện với hiểm nguy, những con người mang bản chất “anh hùng” luôn xem thường cái chết, đôi khi họ lại cảm thấy thú vị vì thỏa được thú phiêu lưu của mình. Nếu có chết cũng chẳng cần ma chay, chẳng cần áo quan hay nhang khói. Họ “xúm nhau khiêng ra gốc Ma Trơi. Cuốc đó, xẻng đó. Hàng hả? Làm gì có, tấm chiếu, cái mền của nó thì trùm cho nó. Cát bụi lại trở về với cát bụi. Có quan trọng gì đâu?”[4, tr.31]. Tất cả bởi miếng cơm, manh áo, bởi cái nghiệp phu trầm, phu vàng, phu đá quý và phu bao thứ khác vây lấy thân “những người khốn khổ”. Đúng như nhân vật Minh Tàn trong truyện Giã từ vàng nói: “Tôi không sợ chết. Thật đó. Không tin sao? Này nhé, tôi không vợ, không con, vô gia đình. Có được ba sào đất ở khu kinh tế, chẳng nghĩa địa gì. Nên cái chết chả đáng sợ. Mà suy cho cùng, ai chả chết. Dưới hầm hay nghĩa địa cùng đều trong đất mẹ.”[4, tr.60]. Không chỉ qua lời nói, hành động vớt xác kẻ phu vàng xấu số của Minh dưới hầm đã sập mà bất kì nhân vật nào từ ca trưởng, chủ hầm, nhà sư … chỉ biết lắc đầu chịu sầu hay tụng kinh niệm phật đã thể hiện rất rõ cho phẩm chất ngang tàng của anh. Sự thờ ơ, lãnh đạm, chỉ nghĩ tới số vàng còn lại dưới hầm của họ thể hiện cho sự sợ hãi cái chết hay nó minh chứng rõ cho cái chết trong tâm hồn của những con người đang sống? Nhân vật Minh quyết định mang thân mình ra mạo hiểm, đánh cược với cái chết không vì số tiền công mình sẽ nhận được mà bởi sự ý thức của tính và tình người trong con người đã nếm đủ những đắng cay xen lẫn ngọt bùi ở đời. Đó còn là sự rung động trong tâm hồn, sự cảm thương sâu sắc đối với những phận người bất hạnh như anh. Nhân vật Minh nhìn thấy trong mắt hai người đàn bà khóc lụy dưới chân mình kia có hình ảnh của người mẹ mình có lẽ đã khóc lả vì sự ra đi của anh. Nỗi hối hận về sự sai lầm của người “anh hùng” tràn về, giằng xé tâm can và gợi lại miền kí ức xa xôi nhưng đẹp đẽ về tình mẫu tử đã thúc đẩy anh hành động. Hành động này không chỉ chứng tỏ phẩm chất nghĩa hiệp, ngang tàng, “xem cái chết nhẹ tựa hồng mao” mà còn thể hiện chiều sâu nội tâm trong con người nhân vật Minh. Điều này thể hiện sự khác biệt của nhân vật “anh hùng” trong sáng tác Nguyễn Trí so với hình tượng người anh hùng sử thi trong lịch sử văn học thế giới nói chung, văn học Việt Nam nói riêng ở các giai đoạn trước đó. Nghĩa là các nhân vật này không chỉ bộc lộ mình qua hành động ở những sự kiện ác liệt, gây cấn ở chốn giang hồ được lấy làm bối cảnh chung cho tác phẩm mà còn được tác giả thể hiện, khai thác trong những trạng thái suy tư, chiêm nghiệm trong tâm hồn họ.
Miêu tả các “anh hùng” của Bến tắm ngựa – nơi tập trung những con người khổ nhất gầm trời, Nguyễn Trí không đẩy xa họ với con người hiện thực đời thường mà xây dựng họ hiện thân là những nhân vật gần gũi với đời thực bằng những tính cách rất người. Nghĩa là bên cạnh những phẩm chất tốt, họ còn có cái xấu, những điểm yếu vốn có của con người nói chung. Điều này thể hiện cho một quan niệm nghệ thuật về con người đa diện của Nguyễn Trí. Ngang tàn, ngạo nghễ, giỏi võ và nghề nhưng họ cũng có những cái sợ rất người, rất đời. Nhân vật Minh Tàn không sợ chết, sẵn sàng ăn thua bằng búa rựa với cô hồn chốn bãi nhưng “sợ một mình giữa nước”[4, tr.51]; Thu Râu trong truyện Đá Quý uy danh một thời nhưng cũng thừa nhận “sợ kẻ không có gì để mất” và “sợ thằng có cái để mất” [4, tr.91], nghĩa là Thu Râu sợ con người, cái sợ của một kẻ đã quá sành sỏi về cuộc đời. Nhân vật Thành cũng dùng thủ đoạn để chiếm hữu người đẹp bằng cách “mắc võng trước quán. Đèm đẹp ngủ bên trong. Nàng tâm sự rằng… Thành lắng nghe và vờ say ngủ. Ngủ nên đánh rơi cái mền. Đèm đẹp tới đắp mền dùm cho Thành Bụi. Thành tỉnh giấc ôm lấy em yêu và nói anh yêu em, anh cần em, anh thích em…”[4, tr.30]. Thành cũng là con người bằng da thịt, cũng yêu yêu đương đương như ai nên cô đơn và trống vắng… không thể chối từ. Nhưng Nguyễn Trí luôn dành sự yêu thương và trân trọng khi miêu tả hình tượng nhân vật này. Yêu thương, trân trọng vì Thành còn “cảm thấy mình khốn kiếp khi sòng phẳng với kẻ yêu và đặt niềm tin vào mình”[4, tr.33].
Nguyễn Trí viết về người “anh hùng” phu bãi như viết về chính cuộc đời mình. Những Minh Tàn, Thu Râu, Thành Bụi… là hình mẫu lí tưởng minh chứng cho cuộc đời thăng trầm của Nguyễn Trí. Một con người từng trải, “anh hùng” một thời nhưng giàu nghĩa tình và run sợ trước những biến động của cuộc đời. Đúng như nhà văn Lê Minh Khuê đã nhận xét: “Như nhiều truyện ngắn của Trí. Đọc rồi mới thấy tác giả là người có tình, nghĩ ngợi thâm sâu, nhân hậu, có cái run sợ khi sống và hành xử với đơi”. Đồng thời, qua những nhân vật ấy, ta còn thấy được quan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Trí. Đó chính là con người đa diện như chính con người cụ thể, sinh động ngoài đời.
Tiêu Viết Hải
Tài liệu tham khảo
[1] Antanốp (1965), Viết truyện ngắn, NXB Văn nghệ, Hà Nội.
[2] Phương Lựu (chủ biên) (2006), Lý luận văn học, NXB Giáo Dục
[3] Nhiều tác giả (2010), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục.
[4] Nguyễn Trí (2013), Bãi vàng, đá quý, trầm hương – tập truyện ngắn, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
src=http://m.f9.img.vnecdn.net/2014/07/02/body-Do-te-4247-1404274819.jpg