/
.
Sinh năm 1933 tại Hành Thịnh, Nghĩa Hành, Quảng Ngãi, ngay từ những ngày còn là học sinh Trường Trung học Lê Khiết, Nguyễn Văn Giai đã nuôi mộng văn chương. Năm 1948, theo yêu cầu của cấp trên, chàng thanh niên Nguyễn Văn Giai đã tạm ngừng học tập, tham gia phong trào cách mạng tại địa phương: vừa dạy học vừa làm thơ. Và ngay trong những tháng năm ấy, với bút danh Hoàng Điệp, tập thơ viết tay “Núi Kỳ Lân” của anh đã ra đời để kịp thời tuyên truyền cho nền giáo dục kháng chiến. 1954, tập kết ra Bắc tiếp tục hoàn thành chương trình phổ thông, đến 1956, anh được chọn đi học ở Trường Đại học Tổng hợp Lomonosov. Trở thành một chuyên gia Văn học Nga – Xô viết, về nước với tấm bằng đỏ, Nguyễn Văn Giai được phân công giảng dạy ở ĐHSP Vinh (1962), ĐHSP Huế (1976) và ĐHSP Quy Nhơn (1978).
Nếu nghệ sĩ là một người hát rong thì dạy học cũng là một nghệ thuật, nên người giảng dạy văn chương chính là người nghệ sĩ đang cất lên tiếng hát của lòng mình trước những học trò. Và vì vậy, người thơ Việt Thương và người thầy Nguyễn Văn Giai đã hòa quyện làm một để lặng lẽ “hát rong” trong suốt một đời cầm bút và cầm phấn của mình:
Bất cứ ai, kể gì kẻ hát rong
Tình thiên hạ đựng đầy trong hồ mắt
Thuyền đã đắm khi ai cùng đối mặt
Vẳng bên tai hai tiếng “giữ gìn” sao? (Giữ gìn).
          Tất nhiên, đã làm thầy thì cần biết “giữ gìn” tác phong của mình trước học trò. Nhưng giảng dạy văn chương, muốn thu phục được học trò thì cần có một tâm hồn nghệ sĩ. Và vì thế, đã nhiều lúc, người thơ Việt Thương đã lấn át người thầy Nguyễn Văn Giai trong những thoáng tình cờ rung động ấy:
Từ giảng đường nhìn xuống thấy dáng em
Đang chép chép ghi ghi, hé nụ cười bí ẩn
Tim linh mục bỗng rộn ràng, ngơ ngẩn
Tưởng cửa thiên đường mở sẵn đón chờ ai (Thất bại).
          Với sự nghiệp giảng dạy, Nguyễn Văn Giai là một người thầy, người Chủ nhiệm Khoa nghiêm cẩn đến khắc khổ. Thầy đã từng là đại biểu ngành giáo dục dự Đại hội thi đua “Ba sẵn sàng” toàn miền Bắc năm 1973. Vì thế, không lạ gì khi mà đồng nghiệp và sinh viên thường gọi thầy là Paven Cooc-sa-Giai (Nhân vật Paven Coocsaghin trong “Thép đã tôi thế đấy” của Ôxtơrôpxki). Trong sinh hoạt thường ngày ở trường, con người trách nhiệm đã khuất lấp hẳn con người nghệ sĩ. Nhưng khi được giao tiếp cùng thầy ngoài giờ giảng, con người nghệ sĩ rất dễ dàng được bộc lộ. Nhưng cái con người thơ Việt Thương kia trong suốt cả cuộc đời thầy hầu như ít người khám phá kỹ bởi một lẽ giản đơn là ngoài các tác phẩm, công trình in rải rác trên báo chí, do điều kiện kinh tế khó khăn, thầy chưa hề xuất bản một tác phẩm nào. Lại thêm các sáng tác thầy viết từ 1975 trở về trước qua bao lần sơ tán, chuyển trường đã thất lạc hầu hết. Thầy chỉ mang theo và giữ lại gần 100 quyển nhật ký ghi chép trong vòng 50 năm, trong đó có nhiều tập nhật ký được viết bằng thơ. Chỉ đến khi thầy qua đời (10/2010), người thân mới lần giở lại các bản thảo, và vô cùng ngạc nhiên trước gia tài văn học đồ sộ của thầy: hàng trăm bài thơ dịch, gần 2.000 bài thơ và bản thảo tập nhật ký được viết dưới dạng tiểu thuyết. Khi tiểu thuyết “Sóng trắng” được xuất bản, dù đã cố nén chữ nén dòng, cuốn sách vẫn dày đến 790 trang, khổ 16 x 24. Có thể nói “Sóng trắng” là bức tranh sinh động về tinh thần vượt khó đầy khí phách anh hùng và cũng đầy ưu tư trăn trở của thầy trò Trường ĐHSP Vinh những tháng năm đánh Mỹ. Như vậy, sau khi thầy ra đi với hai bàn tay trắng, hai tập thơ dịch (“Xécgây Êxênhin trong một thế giới không trữ tình” và “Xécgây Êxênhin – một thế giới trữ tình”), Tiểu thuyết “Sóng trắng” và tập thơ “Miền sâu thẳm” (chọn 78 trong 2.000 bài thơ còn lại) mới được những người con thân yêu của thầy dành dụm tiền xuất bản.
Đường nghề, đường văn của Việt Thương (Nguyễn Văn Giai) có thể khái quát trong hai cụm từ: Dạy học và Cầm bút. Những năm tuổi trẻ hoạt động cách mạng ở quê, vừa dạy học vừa cầm bút với tập thơ “Núi Kỳ Lân”. Khi sang Liên xô du học, bị tách rời khỏi không khí kháng chiến, chàng sinh viên ấy vẫn đau đáu nỗi nhớ quê hương đang chịu nhiều mất mác:
Hỡi khúc sông nào?… Xác mẹ ta
Chìm sâu đáy nước… (lạnh muôn nhà!)
Trước khi tắt thở còn suy nghĩ:
Chưa thể nơi đây dứt tuổi già (Day dứt-1961).
Đến khi về nước, với mệnh lệnh của Ban Thống nhất Trung ương “Ở đâu, làm gì cũng đều là vì miền Nam cả”, không được trực tiếp về quê tham gia chiến đấu, Việt Thương về giảng dạy tại ĐHSP Vinh, lòng vẫn không nguôi nỗi nhớ miền Nam:
Hai tâm hồn thơ trẻ
Của nửa nước đau thương
Tám năm nào nguôi nhớ
Trăng bên trời quê hương (Dưới trăng-1962).
Hòa lòng vào phong trào cách mạng, Việt Thương hướng về Nam với tất cả khát khao được hòa nhập và niềm tin tất thắng vào cuộc kháng chiến (Người con trai đầu sinh năm 1964 được thầy đặt tên Nguyễn Hướng Nam cũng xuất phát từ tình cảm và niềm tin đó). Nỗi lòng ấy được thể hiện qua lời tâm sự của cây phi lao với cánh chim:
Cảm ơn chim đã chân thành khuyên bảo
Vui hát sao khi bè bạn xa vời
Đang góp sức để tạo thành dông bão
Ở phương Nam đang sấm sét vang trời
Trong ấy bão cho lâu đài giả tạo
Sụp đổ tan khi sức gió cao dần
Ta cần gió, chim ơi ta cần bão
Nếu đem trồng ta trở lại miền Nam! (Tâm giao-1962).
Nhất là nỗi nhớ quê hương Nghĩa Hành đến xót xa:
Ở nơi nao Hành Thịnh
Xa xa ngọn núi Giàng
Tưởng từ trên cao đỉnh
Với tay là chạm trăng (Dưới trăng-1962).
          Có thể nói, con người lãng tử Việt Thương thật sự được bộc lộ mạnh mẽ từ sau khi nhà giáo mô phạm Nguyễn Văn Giai chính thức về hưu (1993). Đây là thời kỳ “hát nốt đoạn sau cùng” nhưng cũng là thời kỳ bùng nổ, “ngát hương” của thơ Việt Thương:
Chuyện sau đó, đâu có gì khó hiểu:
Hoa không nhìn chàng lãng tử cô đơn
Còn người hát rong hát nốt đoạn sau cùng
Đã là lúc hương quỳnh tỏa mùi hương ngan ngát (Người hát rong-1994).
Ta bắt gặp ở giai đoạn này những câu thơ đầy lửa như thể một chàng trai vừa mới biết yêu lần thứ nhất:
Đâu ngờ đốm lửa mong manh
 Làm thiêu rụi hết đô thành mới xây
Thiếu hoa… em tặng chiều nay
Không gian tê lạnh, trời mây xám bầm (Tính sai).
Vắng em là cả không gian tê lạnh, xám bầm; có em, nghe giọng hát em cả vũ trụ chung chiêng, cả hư vô cũng bị cuốn tan vào cơn bão dông tình ái:
Giọng hát ai vừa bất chợt ngân lên
Bảy vách núi cứ ngẩn ngơ chao đảo
Ta bơi giữa hư vô trong những ngày dông bão
Chờ âm thanh quyến rũ ấy lâu rồi (Chia tay Tây Nguyên).
Và cũng đến lúc này, nhà mô phạm Nguyễn Văn Giai mới thật lòng “thú nhận”:
 Trước bàn thờ uy nghi, nhìn tượng Chúa
Anh chẳng hề run sợ đấng Thiêng liêng
Cứ để mặc cho tim mình reo múa
Khi em thành ánh sáng khoảng trời riêng (Thú nhận).
Ai cũng có một “khoảng trời riêng”. Hẵn tất cả sinh viên từng học với Paven Cooc-sa-Giai trước đây chắc chắn sẽ rất ngạc nhiên bởi những vần thơ bừng lên như lửa cháy, bay bổng đến bất ngờ này:
Những gì của em, xin gửi lại cho em
Anh chỉ giữ nụ cười buổi sáng nao gặp gỡ
Rồi khi nào cảm thấy mình đau khổ
Anh sẽ cười để thiên hạ tưởng anh vui (Xin em).
Rất nhiều bài thơ trong đoạn đời “hưu trí” này, Việt Thương ví mình là “chàng lãng tử cô đơn”, là “người hát rong”, thậm chí là một “chàng điên”:
Anh ấy nghĩ: cho đời vui thêm nữa
Nên múa may hát giữa ngã tư đường
Thiên chúa ơi! Đôi mắt buồn chan chứa
Có sương mờ quá khứ vương vương (Chàng điên).
          Đã là con chiên ngoan của Đức Chúa Trời, hơn ai hết, người linh mục thuộc nằm lòng và gương mẫu thực thi những điều răn của Chúa, nhưng “Linh mục Việt Thương” cũng chính là người, trước hết thấu đáo đến tận cùng một chân-lý-trần-ai khác rằng:
          Đã dám yêu chắc chắn chẳng thanh minh
          Không nói chuyện đúng sai trên dòng xanh tình cảm
          Điều tội lỗi mà Chúa hằng nghiêm cấm
          Lại chính là hạnh phúc chốn trần gian (Nghịch lý 2).
Gọi Việt Thương – “Hồn lãng tử trong áo choàng linh mục” là vì thế.
Là một chuyên gia văn học Nga – Xô viết, chuyên dịch thơ Nga và từng xem Puskin, Êxênhin là thần tượng, đọc thơ Việt Thương, ta dễ nhận ra cái không khí Nga, tính cách Nga, tâm hồn Nga bởi sự ảnh hưởng của những thần tượng này:
Tôi bỗng nghe dừa rì rầm thủ thỉ:
Rằng chiều nay chính dưới gốc cây này
Một chàng trai đến chờ hoài, chờ mãi
Mà người yêu như lẩn trốn tận chân mây
Theo thói quen của mọi lần hò hẹn
Chàng đưa tay vuốt nhẹ tóc bồng bềnh
Nhưng hôm nay chỉ khoảng không tĩnh lặng
Làm lòng chàng trống rỗng đến mông mênh(Cổ tích)…
          Bây giờ thì, nhà thơ Việt Thương, nhà giáo Nguyễn Văn Giai đã rời xa cõi tạm 5 năm rồi. Nhưng hình bóng người thầy, người thơ vẫn còn in đậm trong tâm trí hàng vạn học trò. Họ vẫn đang thay thầy bước tiếp trên con đường giảng dạy khắp mọi miền đất nước. Tôi bỗng nhớ bốn câu thơ đầy “ẩn ý” của thầy được viết từ những năm 1962, rằng:
Nếu mai kia tôi không còn sống nữa
Bước đường đời bỏ dở, biết chừng đâu
Thì bạn hỡi… cần chi mà lần lữa
Bước tiếp theo cho hết một nhịp cầu (Ẩn tình-1962).
          Vâng, nhịp cầu thầy bắc, các thế hệ học trò thầy đã, đang và sẽ còn bước tiếp. Với gần 2.000 bài thơ còn lại, thơ Việt Thương sẽ còn tiếp tục góp tiếng với cuộc đời. Xin “người hát rong” cứ bình tâm yên nghỉ vì tiếng hát kia sẽ còn tiếp tục được “bắc cầu” vang đến muôn sau… Nhân kỷ niệm 5 năm ngày mất của nhà giáo, nhà thơ Việt Thương – Nguyễn Văn Giai (10/2010 – 10/2015), VanQuynhon78 xin trân trọng giới thiệu trang  thơ Việt Thương trích từ tập thơ “Miền sâu thẳm” (Nxb Văn học, 2015) cùng các thế hệ sinh viên Quy Nhơn và độc giả xa gần như một nén tâm nhang tưởng vọng.
Mai Bá Ấn