(Đọc tập thơ Về đi của Trần Thiện Lục – NXB Hội nhà văn 2010)
 
          Trần Thiện Lục (Phương Yến) sinh năm 1946 quê ở Nam Định nhưng phần lớn cuộc đời gắn bó với vùng đất Phú Yên từ thời chiến tranh lẫn hòa bình. Ông viết nhiều thể loại, năm 1968 có tập thơ Đồng chí được trao giải thưởng văn học Quân giải phóng Trung Trung Bộ. Hơn 40 năm sau, ông mới ra tiếp tập thơ thứ hai mang tựa đề Về đi.
          Nét đáng chú ý của tập thơ là tác giả vẫn giữ một cảm xúc tươi trẻ xuyên suốt các chặng đường sáng tác. Cảm xúc ấy bắt đầu từ những bài thơ được sáng tác từ lúc còn thanh niên, tiêu biểu là bài Ngủ rừng (viết năm 1964):
“Miên man gió, mênh mông rừng
Võng đu đưa cả cánh rừng đu đưa
Tiếng ai gọi mẹ trong mơ
Giọng ai cười giữa sương mờ sao đêm
(…) Sao ngẩn ngơ… gió ngẩn ngơ
Đầu cánh võng chợt bất ngờ trăng lên”.
Thỉnh thoảng, ta bắt gặp trong rừng già tiếng cười bông đùa của các chàng lính trẻ. Tiếng cười vui nhộn đã phá tan cái vỏ bọc đạo mạo, làm cho con người trở nên gần gũi, tự nhiên hơn:
“Hiện đại là mốt tắm truồng
Một bầy lính tráng coi thường thế gian
Giữa rừng ma nó tới thăm
Ơ kìa con gái… xách quần chạy bay !…”
                                                                                (Nhật ký hành quân).
          Trần Thiện Lục còn có nhiều bài thơ hay về đề tài chiến tranh cách mạng như: Chiều mưa ở ga Hàng Cỏ một ngày sau chiến tranh, Đêm đọc sách chợt nhớ, Qua vùng giải phóng… Bên cạnh đề tài chiến tranh, Trần Thiện Lục vẫn dành một dung lượng đáng kể cho đề tài tình yêu. Tác giả có cảm xúc rất lãng mạn, trẻ trung, bộc bạch tâm tình rất tự nhiên:
“Cảm ơn mái tóc em thơm
Để làn hương cứ chờn vờn mãi thôi
Trăng chơi vơi, gió chơi vơi
Sương buông lành lạnh tiếng người gọi nhau
Lạy trời cứ vậy đêm thâu
Để em cứ mãi gục đầu vào tôi”
                                                                                     (Lại về với Nhất Tự Sơn).
Chợ tình Sa Pa vốn nổi tiếng về sự tự do cởi mở trong tình yêu. Nó không chỉ là ngày hội của những người đang yêu mà cả những người từng yêu nhau nhưng không lấy được nhau, hoặc thậm chí nhiều người đã có vợ chồng cũng mơ tưởng tới. Ta có thể thấy phần nào cái cảm giác ngất ngây trong phiên chợ tình ấy trong bài Mây trắng chợ tình:
“Mây bay trắng đất, trắng trời
Nhà trong mây lẫn tiếng cười trong mây
Chợ tình chưa họp đã say
Tiếng khèn ai gọi ngất ngây ai chờ
(…) Mây vờn chín bậc cầu thang
Bậc thương nhớ, bậc mơ màng em ơi”.
          Thơ Trần Thiện Lục không chỉ trẻ trung ở nội dung mà còn có phần mới mẻ cả về hình thức. Tác giả có cái nhìn độc đáo, tươi xanh về sự vật hiện tượng:
“Buổi sớm gùi mặt trời lên rẫy
Chiều cõng mặt trăng về bếp lửa nhà rông
Trăng thức trong giọt rượu cần bỏng cháy
Trong mắt em cười sóng sánh mênh mông”
                                                                                                     (Đêm nhà rông).
Hai câu đầu của đoạn thơ có cái mới lạ do sử dụng cách diễn đạt hình tượng của đồng bào dân tộc miền núi. Câu ba có tứ thơ hay: trăng tượng trưng cho tình yêu nhưng để nồng cháy thì phải nhờ đến chất xúc tác là rượu cần, men rượu bừng cháy trong đôi mắt sóng sánh lửa tình của cô sơn nữ…
Trần Thiện Lục cũng có nhiều bài thơ viết về quê hương. Tuy Hòa, nơi ông nhận làm quê hương thứ hai cũng đi vào thơ ông với những hình ảnh mới mẻ, giàu chất suy tư:
Đêm nằm dưới ngọn Đá Bia
Gió từng cơn, giọt mưa khuya vơi đầy
(…) Ngàn năm núi đá bạc đầu
Trăm năm rừng có xanh màu người ơi
(…) Trong mưa tiếng biển cồn cào
Từng cơn sóng nấc lọt vào hư vô
                                                                                                        (Đêm Đá Bia)
          Tác giả cũng dành cho nơi chôn nhau cắt rốn Nam Định của mình nhiều bài thơ mang vẻ đẹp tươi trẻ giống như cái nhìn tuổi hai mươi lúc ông mới ra đi. Sau mấy mươi năm xa cách, người chiến binh trở lại quê nhà vẫn nhận ra “Vị say nồng làng ta”: 
Vẫn vàng hoa bí bên sông
Vẫn thơm vị ngọt gió đồng miên man
Sau lũy tre vẫn là làng
Bỗng thương nhớ bến đò ngang chẳng còn
          Ông đã đi nhiều nơi, trải nghiệm nhiều, thấm thía những cái được và mất của cuộc đời mình. Cuối cuộc hành trình lòng vòng khắp nơi, ông quay về lại trước ngõ nhà mình và nhận thấy không có nơi nào đẹp tựa quê hương. Và Trần Thiện Lục đã tự hạ quyết tâm cho mình: Về đi ! 
“Về đi trải chiếu ta nằm
Vắt chân chữ ngũ ngắm trăng hiên nhà
Trăng khuya vẫn đậu cành đa
Hương mình cùng với hương ta mặn nồng”. 
          Tập thơ mang tên Về đi nghe rất ấn tượng, như một lời khuyên nhủ đừng bon chen nữa khi đã hoàn thành sứ mệnh. Biết tiến đúng nơi và biết lui đúng lúc là người thức thời. Về vườn hay về quê không có nghĩa là kết thúc mà bắt đầu cho cuộc trải nghiệm mới. Ở đó, ta bắt gặp ta thời trẻ, nghĩa là mọi thứ vẫn tươi đẹp như ngày đầu mới ra đi…
 
                                                                                                         PHẠM NGỌC HIỀN