CẢM HỨNG ANH HÙNG CA TRONG TIỂU THUYẾT
NGƯỜI NGƯỜI LỚP LỚP CỦA TRẦN DẦN
.
/
 
      Trong văn học cách mạng Việt Nam, tác phẩm Người người lớp lớp (*) của Trần Dần là cuốn tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài Điện Biên Phủ. Tác phẩm được viết ngay sau khi chiến thắng Điện Biên. Tập I được NXB Văn nghệ in cuối năm 1954, tập II và III được in năm 1955. Đây là tác phẩm có giọng điệu anh hùng ca cường tráng nhất trong các tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1945 -1975.
       Cảm hứng anh hùng ca thường xuất phát từ hiện thực lịch sử hào hùng của dân tộc. Giọng điệu hào hùng sôi động trong Người người lớp lớp là sự phản chiếu của lòng hăm hở quyết tâm chiến đấu của các chiến sĩ Điện Biên (mà chính tác giả cũng là người trong cuộc ). Để cho giọng điệu anh hùng ca thêm mạnh mẽ thì phải miêu tả một khí thế chiến đấu bừng bừng cao độ. Cuộc chiến càng dữ dội thì phẩm chất anh hùng càng ngời sáng. Thật hiếm có một tiểu thuyết Việt Nam nào có được những câu văn miêu tả không gian chiến trận giàu hình ảnh sống động như trong tác phẩm này:“Đột phá khẩu như một thác lửa rừng khói”, “Trong cái bể ngầm ngập khói, ngầm ngập lửa, chằng chịt đường đạn đỏ lừ hung dữ (…) lửa tung thâm rập rờn”,“tung thâm mênh mông lửa đạn”,“chớp lửa rần rật”,“rừng bom lửa”,“biển khói lửa”,“mưa lửa”…
       Sự dữ dội của trận chiến không chỉ được miêu tả dưới mặt đất, ảnh hưởng đến con người mà còn làm rung động cả vũ trụ: “Ánh trăng còn vẩn tia lửa dữ”, “mặt trăng ám khói sém lửa”… Trời cũng nổi giông tố đầu mùa hạ để làm tăng sự khốc liệt của trận đánh: “không ai phân biệt tiếng đạn nổ với tiếng sấm sét nữa. Rầm rầm! Chớp loé dữ dội (…) Rắc ! Rầm ! Thân cây hai người ôm cũng gãy như một chiếc đũa. Cây cối đổ ngổn ngang (…) ngã đành đạch trong sấm chớp, pháo nổ tứ tung”. Sự dữ dội của trận chiến có tác dụng thử thách lòng dũng cảm của các chiến sĩ . Khí thế chiến đấu của họ cũng được miêu tả bằng những từ ngữ rất đắc địa “cả miền khu đông sát khí đằng đằng”, “quân ta chạy như bão”,“xô lên như biển động”,“quân ta đánh náo động cả lên, hai mũi cứ dọc ngang vùng vẫy, diệt một toán, lại diệt tiếp sang toán khác (…) khói lửa rập rờn, quân ta hiện lên đàng đông, vượt sang đàng tây, kẻ địch ôm đầu, chạy ngả nào cũng là ngả máu”. Tác giả sử dụng khá nhiều biện pháp tu từ, đặc biệt là thủ pháp so sánh và khoa trương làm cho câu văn sinh động, giàu hình ảnh.
       Một thủ pháp quan trọng tạo nên đặc trưng của sử thi là phép điệp. Chính thủ pháp trùng điệp đã tạo nên tính chất hùng tráng của tác phẩm sử thi và làm cho Người người lớp lớp có giọng văn đặc biệt không thể lẫn lộn được với các tác phẩm văn xuôi hiện đại khác. Biện pháp điệp được thể hiện ở nhiều cấp độ, trước hết là điệp từ ngữ, hình ảnh. Tác phẩm đã lặp với tần xuất rất cao các hình ảnh: mặt trời, trăng sao, gió, lá vàng, con đường, các bài hát… Đặc biệt là hình tượng lá cờ (tượng trưng cho chiến trận) được lặp trên 150 lần. Nhưng nhiều hơn nữa là từ “đi”, trung bình mỗi trang lặp 2,5 từ, có trang tới 10 từ “đi”, có lẽ đây là một kỷ lục trong văn xuôi Việt Nam. Nó góp phần tạo nên “không gian động”.
       Có lẽ cũng chưa có tác phẩm nào trong văn xuôi Việt Nam sử dụng thủ pháp điệp với tần xuất cao và đa dạng như Người người lớp lớp (ngay cả nhan đề đã cho thấy điều đó). Không chỉ điệp từ ngữ mà còn có rất nhiều lần điệp câu và cú pháp câu . Chẳng hạn như câu “Quân ta vẫn tiếp tục đêm đi ngày nghỉ” được lặp lại nhiều lần. Nhưng nhiều nhất là điệp cú pháp câu: “Người nọ tiếp người kia ! Người trước dậy dỗ người sau ! Người sống dậy người sống ! Lớp lớp xô lên, mỗi lớp càng về sau càng giương cao lá cờ đỏ”. Màu cờ đỏ trôi trong lửa khói, chói lọi và thôi thúc ! / (…) Lá cờ phất sang phía đông: xung kích ở phía đông nổi dậy, xông lên cướp phăng đột phá khẩu ! / Lá cờ phất về hướng tây: xung kích ở phía tây đã vào đồn, rồn rập đánh diệt các hào, các ụ ! / Lá cờ phất sang mũi điểm, mũi điểm thọc mạnh ! Phất sang mũi diện, mũi diện xô lên. Lá cờ phất đến đâu, chiến sĩ nổi dậy đến đó / (…) Lá cờ vẫn quẫy. Lá cờ quay về hướng nào, xung kích ở hướng đó nổi dậy, kẻ địch ở đó tan, những người anh hùng ở hướng đó xuất hiện”. Biện pháp trùng điệp đã tạo cho các câu văn có sự cộng hưởng sức mạnh, cuồn cuộn như những đợt sóng cồn, tạo nên nhạc điệu hùng tráng của tác phẩm. Không chỉ điệp cú pháp câu mà Người người lớp lớp còn có hình thức điệp cú pháp đoạn ( ở chương tả cảnh bệnh xá tiền tuyến), đây là hình thức rất hiếm thấy trong văn xuôi hiện đại. Nhờ thủ pháp điệp mà giọng văn có khí thế sôi sục, mạnh mẽ, tạo ra “một dòng sử thi cường tráng” (Hegel). Và tác phẩm có kiến trúc tầng tầng lớp lớp như sử thi cổ điển.
       Giọng điệu sôi động của anh hùng ca được thể hiện ở cách dùng từ và ngắt nhịp. Để tạo không khí sôi động của chiến trường, tác giả dùng động từ với tần xuất rất cao và rất đa dạng. Bên cạnh đó cũng sử dụng hàng loạt các từ láy tượng hình, tượng thanh để góp phần tạo nên những âm thanh, hình ảnh sống động của trận đánh. Không phải tác phẩm nào cũng tập hợp được một số lượng từ láy đa dạng thuộc trường nghĩa chiến tranh như trong tác phẩm. Nhịp điệu sôi động của trận đánh còn được thể hiện ở cách ngắt nhịp ngắn, nhanh, mạnh, dồn dập thể hiện không khí khẩn trương, dứt khoát của các chiến sĩ : “Thoắt cái: lựu đạn ném tới tấp. Thoắt cái: chiếm một ổ súng (…) Thoắt cái: tổ 1 đánh tan một ổ súng nữa”. Nhịp văn nhanh mạnh, thời gian trần thuật phải vội vàng để theo kịp thời gian sự kiện. Giọng điệu của anh hùng ca phải náo nức, say sưa khi miêu tả lòng dũng cảm tuyệt vời của các anh hùng: “Lửa chớp hung dữ, những tiếng nổ như tầm sét đánh (…) Cao xạ pháo ta đang đan lửa trên không. Bà già rụng, B. 26 rụng, bọn phi cơ hớt hải từ Hà Nội lên, mấy chục cái húc phải lưới lửa, cái cháy, cái bị thương, cái lồng lộn thả bom bừa phứa, cái chạy, chả cái nào xông được vào trận địa bộ binh ta ! Một trận đấu pháo, đấu phi cơ kịch liệt, vang trời dậy đất diễn ra từ hai tiếng . Trong khi đó, bộ binh bộc phá dấn thân trong mưa lửa đánh phá hàng rào Him Lam! Người trước ngã, kẻ sau xô lên tiếp ! Mặc dù đạn xé lửa thiêu, mặc dù xương tan thịt nát, người người lớp lớp xông lên”. 
       Điều đặc biệt của Người người lớp lớp là giọng văn sôi động không chỉ được dùng để miêu tả hành động chiến đấu mà cũng được dùng để miêu tả dòng nội tâm của nhân vật sau khi chiến tranh kết thúc. Hào khí Điện Biên Phủ vẫn còn ngùn ngụt trong lòng các nhân vật: “Cũng như cái cảm giác chung No chiêm nghiệm những khi đi Bắc về Đông, trong cuộc đời kháng chiến. Cuộc sống ngầm ngập cuộn sóng, người người lớp lớp xô lên… Cũng có người ngã, người tụt sau, người rẽ ngang, người chắn đường! Con đường có quành, có rẽ, có ngoặt, có khúc khuỷu gồ ghề. Nhưng cuộc sống vẫn xô lên bất chấp kẻ địch, mọi chông gai”. Giọng văn hào sảng tưng bừng không chỉ có ở một nhân vật, mà còn nhiều nhân vật , tạo ra âm vang trùng điệp của sử thi. 
        Giọng văn anh hùng ca trong Người người lớp lớp không chỉ là sự phản chiếu từ hiện thực sôi động của chiến trường mà còn xuất phát từ nhiệt huyết trào dâng trong lòng tác giả. Nói như Hegel, tác giả sử thi đã mang trong mình một “nội cảm sử thi” sâu sắc và “một hơi thở sử thi hùng mạnh” (Mỹ học). Ta có cảm tưởng như Trần Dần không thể ngồi yên khi miêu tả cảnh chiến đấu bừng bừng khí thế của quân ta trong trận Điện Biện chấn động địa cầu. Tác giả phải vừa đi vừa viết còn độc giả phải vừa đọc vừa đi vì được “truyền lửa” từ tác phẩm. Có thể nói: Tiểu thuyết sử thi Người người lớp lớp đã làm sống lại giọng văn hùng tráng đích thực của Iliát và Mahabharata.
 
PHẠM NGỌC HIỀN
 
(*) Chúng tôi căn cứ vào văn bản “Người người lớp lớp” của Trần Dần– NXB Hội nhà văn, H. 2004
.