Đặc trưng của văn học Nhật Bản là vẻ đẹp tính nữ. Tính nữ ấy xuyên suốt quá trình phát triển của văn học từ cổ đến cận – hiện đại. Dấu ấn tính nữ có trong những truyền thuyết, huyền thoại từ ngàn xưa; tính nữ bàng bạc trong nền thơ ca cổ điển từ thời Nara tới Edo; tính nữ ẩn hiện trong kiệt tác Truyện Genji– cuốn tiểu thuyết được xem là đầu tiên của nhân loại; tính nữ còn được lưu giữ trong những sáng tác của các thế hệ nhà văn hiện đại Nhật Bản sau này, đặc biệt là Kawabata Yasunari (giải Nobel năm 1968). Với tanka– một thể thơ cổ xuất hiện từ thế kỉ thứ IV, vẻ đẹp tính nữ của văn học Nhật Bản đã trở thành tính nữ vĩnh cửu. Bên cạnh haikư, thể thơ ngắn nhất được cả thế giới biết đến, người Nhật còn tự hào vì là chủ nhân của tanka – những vần thơ được xếp vào loại diễm tình bậc nhất.

    Nói đến dấu ấn tính nữ, không chỉ có ở riêng Nhật Bản mà đây là hằng số chung của nhiều nền văn hóa, văn học khác nhau trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia Châu Á. Thế nhưng, có lẽ không ở đâu, dấu ấn tính nữ lại đậm nét như ở xứ sở Phù Tang. Có thể nói, vẻ đẹp tính nữ chính là một kỳ quan trong văn hóa, văn học Nhật Bản.
    Tính nữ trong văn học Nhật Bản có lẽ bắt nguồn từ dòng văn học nữ lưu thời đại Heian. Do những đặc điểm rất riêng biệt trong thể chế cung đình, người phụ nữ thời kì này được đề cao. Những phụ nữ quý tộc trong cung đình Heian tự do sáng tác văn chương về tình yêu và cuộc sống. Văn học nữ lưu của Nhật Bản là hiện tượng độc nhất vô nhị trong văn học nhân loại với những cây bút tài hoa, đa tình đã để lại những kiệt tác văn chương bất hủ: Murasaki Shikibu với Truyện Genji; Sei Sonagon với Sách gối đầu giường (Nhật kí bằng thơ) hay nữ sĩ Komachi tài hoa trác tuyệt với những vần tanka bất tử…
    Văn chương nữ lưu thời Heian đã ghi dấu ấn và ảnh hưởng sâu sắc trong việc định hướng cảm hứng chủ đạo cho nền văn học Nhật Bản là văn học sắc tìnhvà nữ tính. Nhà nghiên cứu Nhật Chiêu đã nhận xét: Thời Heian, đặc biệt là phụ nữ đã tạo nên một nền văn hóa độc đáo mà nhiều yếu tố của nó đã trở thành nền tảng văn hóa dân tộc(2). Mặc dù đến sau thế kỉ XII, vai trò của người phụ nữ trong xã hội mất dần, chế độ phong kiến chuộng võ lên ngôi với sự thống trị của tướng quân Sogun, tầng lớp võ sĩ được đề cao, văn học chuyển dần sang tính chất võ sĩ đạo nhưng dấu ấn tính nữ của văn chương nữ lưu thời Heian vẫn được lưu giữ và ảnh hưởng sâu đậm, dài lâu. Kawabata đã đánh giá: Thời kì Heian đã đặt nền móng cho truyền thống vẻ đẹp Nhật Bản, và trong suốt tám thế kỉ đã ảnh hưởng đến truyền thống văn học Nhật Bản, xác định tính chất của nó(2).
    Tính nữ trong văn học Nhật được thể hiện tập trung, đẹp đẽ và diễm tình nhất trong những vần thơ tanka – thể loại được sáng tác nhiều nhất trong thời Heian. Từ Vạn Diệp Tập đến Cổ Kim Tập, tanka là kết tinh cho vẻ đẹp tính nữ của văn chương Heian- kỉ nguyên vàng trong lịch sử văn học Nhật Bản. Tanka là thể thơ mẫu mực đã trở thành cổ điển của nền văn học Phù Tang.
    Tanka (waka: đoản ca, hòa ca) vốn có nguồn gốc là một thể thơ truyền thống của Nhật Bản, được ghi chép vào thời Nara. Đây là thể thơ đầu tiên, ra đời sớm nhất tại Nhật Bản. Cổ kí sự– bộ sử rất quan trọng của người Nhật ghi lại một huyền thoại kể rằng thần bão tố Susano chính là người đã sáng tạo ra bài thơ đầu tiên gồm ba mươi mốt âm tiết, đó là khởi nguyên của tanka (3). Tập thơ đánh dấu thời kì đầu của tanka là Vạn diệp tập– công trình độc nhất vô nhị, ngọn hải đăng của thơ ca Nhật Bản. Vạn diệp tập hay còn gọi là Tập thơ của mười ngàn chiếc lá gồm 20 quyển thơ với 4500 bài. Tác giả của nó là những người có tên (khoảng 400 người) và không tên.
     Hình thức của tanka rất ngắn, gồm 5 dòng thơ và 31 âm tiết (theo cách cấu tạo của chữ Nhật). Nó được chia một cách bắt buộc: 5 7 5 7 7. Với 31 âm tiết, bài tanka không quá 12 từ. Và đó là thể thơ ngắn thứ hai chỉ sau haiku. Sở dĩ tanka được người Nhật yêu thích và sáng tác nhiều hơn haiku bởi nó không tuân theo quy tắc phải có quý ngữ (kigo); mặc khác, tanka còn được gieo vần tự do hơn và đặc biệt, nó có thể diễn tả rất uyển chuyển bất kì tình cảm, cảm xúc nào của con người, đặc biệt là tình yêu đôi lứa. Mỗi bài tanka tuy chỉ có 5 dòng, 31 âm tiết nhưng ý tình đều trọn vẹn, đó thường là một câu chuyện tình được cô đọng chặt chẽ và hàm súc trong số lượng ngôn từ hữu hạn; hình ảnh thơ trang nhã, mực thước nhưng cũng rất dung dị. Bên cạnh đó, ngôn ngữ thơ tanka là loại ngôn ngữ quý tộc được trau chuốt một cách tinh tế, mượt mà nên dễ lay động lòng người.     
     Đội ngũ sáng tác của tanka khá đa dạng nhưng chủ yếu là tầng lớp quý tộc cung đình Heian, không phân biệt nam hay nữ giới. Trong đó có cả những vị vương công, công chúa, công nương, hoàng thân, thiên hoàng, cựu hoàng, phu nhân…; thậm chí có cả các nhà sư, hòa thượng. Tanka được đánh giá là thể loại thơ cao cấp và được trau chuốt, phần lớn ca ngợi cái đẹp và những tình cảm nghiêm túc(4)
      Tao nhã và dịu dàng, đó là cái đẹp của tanka(5). Có thể ví những vần thơ tanka như hình ảnh các nàng geisha thấp thoáng dưới bóng hoa anh đào: đẹp diễm tình và buồn man mác. Bước vào thế giới tao nhã và dịu dàng ấy, người đọc sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên xứ sở Phù Tang và tâm hồn Nhật Bản, đặc biệt là tâm hồn người phụ nữ.
     Nội dung lớn nhất, đặc trưng quan trọng nhất của tanka là tiếng nói tình yêu nam nữ. Tanka được coi là thể thơ tình của người Nhật. Khi muốn thổ lộ tình cảm luyến ái, trai gái Nhật làm thơ tanka: Dù ở nhiều xứ khác, thơ ca cũng có vai trò mối lái trong tình yêu nam nữ nhưng đặc biệt ở Nhật, nhất là vào thời Heian, việc nam nữ tâm tình với nhau bằng các bài thơ là vô cùng phổ biến…(6).
     Tanka diễn tả mọi cung bậc của tình yêu – yếu tố bản thể, thuộc tính thiêng liêng nhất của con người. Từ những cảm xúc nhẹ nhàng, man mác của tình yêu chớm nở chảy tràn trong tim, bộc lộ ra sắc diện:
Giấu tình yêu đi
Nhưng mà sắc mặt
Dường như thầm thì
Và người ta hỏi
Phải rằng đang si
                                                     (Kanemori)
đến tình yêu mãnh liệt, tha thiết như sóng triều dâng:
Như trong phong ba
Sóng đập vào bờ đá
Em đừng sợ
Tâm hồn tôi cũng thế
Dâng trào thiết tha
(Shigeyuki)
Chân thực và tinh tế, tanka diễn tả nỗi khắc khoải trong tình yêu khi phải chia xa:
Em đâu biết được
Lòng anh thế nào
Sáng chia tay nhau
Tóc đêm còn rối
Hồn thì nao nao
(Công nương Horikawa)
    Cảm nhận hạnh phúc vẫn còn lưu giữ trong tâm hồn của một công nương sau khi người yêu đã rời xa được chắt lọc một cách tinh tế chỉ trong năm dòng thơ và ba mươi mốt âm tiết. Bài thơ tiêu biểu cho chất dư tình lắng đọng trong cảm xúc thơ tanka.
     Đặc trưng lớn nhất của những bản tình ca ấy vẫn là vẻ đẹp, buồn, đầy hoài niệm. Tâm hồn người Nhật hiện lên thật trọn vẹn và chân thực:
Tôi đi đây
Nhưng nếu em đợi
Như cây thông gầy
Đứng trên đỉnh núi
Tôi lại về ngay.
(Yukihira)
     Bài thơ đã đem đến cho người đọc một cảm giác nao lòng. Cũng là nói về sự thủy chung đấy mà sao chất chứa bao niềm tin tưởng và yêu thương trong lời nhắn gửi. Trái tim của chàng trai đa tình như tin chắc một điều rằng người mình yêu giống như cây thông gầy trên đỉnh núi cao – biểu tượng của sự đợi chờ, chung thủy sắt son. Trong tình yêu, niềm tin thật cần thiết bởi đó là ngọn lửa sưởi ấm cho nhau dù muôn vời cách trở, giống như niềm tin của cựu hoàng Sutuko trong bài thơ dưới đây:
Dòng nước đang trôi
Rẽ theo ghềnh đá
Rồi lại chung đời
Thành dòng thác đổ
Em về bên tôi
     Những muộn phiền và khổ đau trong tình yêu mà tanka diễn tả cũng thật nhẹ nhàng, bao dung:
Dù người bỏ rơi
Tôi không hận
Nhưng lời thề xưa
Nếu như linh hiển
Sợ lắm người ơi!
(Công nương Ukon)
     Sự đợi chờ và nỗi lo sợ phải chia ly nhiều khi trở thành ẩn ức trong cõi vô thức con người, ám ảnh cả trong những giấc mơ:
Bờ Suminôê
Sao người không đến
Sợ thế nhân ghê
Trong mơ cũng thế
Người không thấy về
(Toshiyuki)
    Đặc biệt, tanka còn dành những vần thơ đẹp đến nao lòng để khóc thương cho cái chết trong tình yêu.
Nàng có là hoa không
Khi tro tàn hài cốt
Tôi đem rắc trên đồng
Tàn tro bay nhè nhẹ
Hương hoa vào hư không
     Bài bi ca của một tác giả vô danh thật nhẹ nhàng nhưng có sức ám thị rất lớn. Hình ảnh chàng trai đang rắc tro tàn hài cốt của người yêu gây cho người đọc nỗi xúc động sâu xa. Ta có cảm giác như trong gió lạnh, giữa đồng vắng, hình bóng chàng thật lẻ loi, chìm khuất trong làn tro bụi quấn quanh người đang bay nhè nhẹ theo làn gió.
     Người Nhật tôn thờ tình yêu nhưng cũng cảm nhận rất rõ về sự mong manh, hư ảo, vô thường của nó. Họ thường xây dựng cho mình một lí tưởng để tồn tại, nhưng khi lí tưởng ấy không còn thì cũng sẵn sàng hủy hoại bản thân. Thật hợp lí khi cho rằng: …người Nhật, bên cạnh việc tìm cho mình một ý nghĩa sống của cuộc đời thì vẫn sẵn sàng hủy hoại mạng sống của mình khi ý nghĩa đó không còn nữa(7). Không ít người đã chọn tình yêu là lẽ sống duy nhất của cuộc đời. Tình yêu dường như đã trở thành sợi dây vô hình nối từ quá khứ đến hiện tại, xuyên kết những tâm hồn vĩ đại Nhật Bản như: các nhà văn, nhà thơ nữ thời Heian (Komachi, Izumi, Murasaki Shikibu…), tới Kawabata (tình yêu là sợi dây độc nhất giữ đời tôi lại) và Murakami Haruki – nhà văn đương đại nổi tiếng nhất Nhật Bản sau này. Trong những tác phẩm của Murakami, tình yêu là ý nghĩa duy nhất đối với cuộc đời con người, đặc biệt tình yêu gắn liền với thể xác là nơi trú ngụ của nỗi cô đơn và sự mất mát trong tâm hồn của những người trẻ tuổi.
    Các nhà thơ nữ tài sắc của thời kì Heian như: Komachi, Izumi, Ise, Sakanoeno Iratsume… đã viết nên những bài tanka tình yêu hay nhất. Tình yêu đam mê, tận hiến và giàu hi sinh của người phụ nữ Nhật Bản chính là điểm sáng nhất của thiên tính nữ trong thơ tanka:
Nếu yêu là chết
Thì thiếp đã chết rồi
Chết đi
Chết lại
Chết trăm nghìn lần
(Phu nhân Kaxa- thế kỉ VIII)
    Yêu là chết. Vậy mà vẫn cứ dâng hiến tất cả cho tình yêu: Chết trăm nghìn lần. Đó là sự khẳng định cho lí tưởng sống coi tình yêu là cả cuộc đời của những cô gái Phù Tang có vẻ ngoài mảnh mai, dịu dàng, e ấp như những nụ hoa đào nhưng ẩn chứa bên trong là những trái tim yêu mãnh liệt, thiết tha, giàu nữ tính.
     Komachi- một trong 6 ca tiên, người con gái nổi tiếng tài sắc mà cuộc đời đã trở thành huyền thoại, là chủ nhân của những bài tanka diễm tình nhất. Tình yêu của nàng luôn cháy bỏng đam mê. Đó là một tâm hồn đa cảm,  khao khát tình yêu, khao khát tri âm, tri kỉ:
Từ khi tôi nhìn thấy
Người tôi mong chờ
Trong một giấc mơ
Thì niềm tin từ đấy
Tôi đặt vào trong mơ
    Komachi là niềm ước ao, ngưỡng vọng của biết bao chàng trai. Truyền thuyết kể lại rằng một chàng trai vì quá si mê Komachi nên đã chấp nhận đứng trước cửa nhà nàng trong trời giá lạnh suốt 100 đêm. Nhưng đến đêm thứ 99 thì chàng si tình ấy đã gục ngã. Đẹp như Komachi cũng là một đề tài trong văn học Nhật. Vốn kiều diễm và được nhiều người say mê là vậy, nhưng dường như Komachi vẫn là người bất hạnh trong tình yêu. Tiếng thơ của nàng chứa đầy ẩn ức và tâm sự về những mối tình thầm kín. Thơ Komachi mềm mại, dịu dàng, đẹp đẽ và đầy nữ tính. Đó là sự kết hợp của trái tim tình yêu cuồng nhiệt, nồng nàn và một bút pháp tài hoa, lãng mạn phi thường:
Có một thứ nhạt phai
Mà không ai nhìn thấy
Bởi sắc ngoài còn tươi
Đóa hoa vô định ấy
Là trái tim con người
    Ca tiên Izumi- tuyệt thế giai nhân tài hoa, là con quan tổng đốc trong triều đình. Thơ Izumi là tiếng lòng của một cuộc đời riêng không hạnh phúc. Nhật kí bằng thơ của Izumi được coi là một loại tiểu thuyết ngắn về tình yêu. Tình yêu đơn phương, bấp bênh, vô định của nàng được ghi lại trong Từ thế chi ca- bài thơ viết trước khi từ biệt cõi đời:
Kỉ niệm cuối cùng em hỏi
Khi đi khỏi thế gian này
Mà tim em khao khát
Hãy đến, anh ơi, lần nữa
Kẻo rồi em chết ngày mai
     Các nhà thơ tanka đã để lại những nốt nhạc lòng về tình yêu và nhân thế giữa cõi phù sinh ngắn ngủi. Lấy tình yêu làm cứu cánh cho cuộc đời, tanka đã chạm vào những góc khuất tình cảm riêng tư, sâu kín nhất của con người. Đó là nguyên nhân lí giải vì sao những ai đã và đang sống trọn vẹn với tình yêu của mình, khi đọc thơ tình tanka đều rung cảm sâu xa trước một sức mạnh vô hình, giàu nữ tính.
    Nội dung thứ hai của tanka – phương diện khác của vẻ đẹp tính nữ là hình ảnh thiên nhiên diễm tình, quyến rũ.
    Thiên nhiên trong thơ haiku thường được nhìn dưới góc độ khách quan, thiên nhiên như nó là và thiên nhiên đích thực là thiên nhiên(8), không bị cái nhìn chủ quan của con người chi phối. Nhà thơ haikư luôn nhìn thiên nhiên như bản thân nó vốn có, và thường chụp lại những khoảnh khắc bất chợt bắt gặp được trong cuộc sống, trên bước đường du hành. Khác với haikư, thiên nhiên trong tanka lại là thiên nhiên đã được khúc xạ qua lăng kính chủ quan của con người. Thiên nhiên là đối tượng để con người kí thác, giãi bày tâm sự. Vì vậy, thiên nhiên trong tanka là những bức tranh đẹp diễm tình với vẻ đượm buồn của cảnh, gửi gắm tâm sự của thi nhân về tình yêu và nỗi sầu nhân thế. Ta hãy cảm nhận một đêm trăng thu đẹp mà buồn như vậy:
Khi tôi nhìn trăng
Nghìn điều vương vấn
Sầu đau ngỡ ngàng
Dù thu đâu phải
Một mình tôi mang
(Chisato)
    
Nguyễn Bích Nhã Trúc
  

(còn nữa)