Lần nào về Làng Đồng tôi cũng được nghe nhắc nhiều đến những gộp núi đá cheo leo kỹ vĩ, nơi đã in đậm những bước chân đi về, trú ngụ của dân làng trong những trận chống càn ác liệt thời đánh Mỹ. Và tôi đã quyết chí đi tìm sự thật về những gộp đá núi này. Những gộp đá trên đỉnh Kôn Clon kiêu hãnh, sừng sững đã từng làm bức tường cản địch. Nơi in đậm chiến tích của các tộc người Chăm, Banar vùng cao Thồ Lồ, xã Phú Mỡ, huyện Đồng Xuân (Phú Yên). Nơi có những cánh ná thiên thần lao vun vút những mũi tên thuốc độc cắm thẳng vào lũ quân cướp nước qua các thời kỳ chống Pháp, đánh Mỹ. Người Banar Làng Đồng (xã Phú Mỡ) ngẩn cao đầu ngước nhìn, khi nhắc nhớ đến nó và không cầm được nước mắt trong mỗi lần kể lại về sự gian khó, ác liệt mà họ đã từng dạn dày, chịu đựng…
         
CHỨNG TÍCH MỘT THỜI OANH LIỆT
          Từ mờ sáng đã tới chân núi Kôn Clon. Theo chân ông La Chí Vũ – Bí thư chi bộ, ông La Chí Tâm – Phó trưỏng thôn và ông La Chí Cường là người của làng cử đi. Cùng đi với tôi còn có anh Nguyễn Ninh – cán bộ Phòng VHTT huyện Đồng Xuân.  Khởi hành leo núi lúc 7giờ, hì hục vượt qua nhiều khe dốc, hàng gộp dựng đứng hiểm trở, anh Vũ  luôn miệng nhắc: “Đi khéo, chớ trật chân rớt xuống vực kia là tan xác đó”. Thật ra núi không cao lắm nhưng đường đi khúc khỉu, gập gềnh. Phải mất gần 3 giờ, chui luồn trên 2 km đường rừng, chúng tôi đã tới đích cần đến. Trước mắt chúng tôi là những mái đá khổng lồ, hàng trăm hang gộp sừng sững, hun hút sâu những “địa đạo” bằng đá, không thể nào tính hết được. Một hang “gộp mẹ” có hàng chục ngóc ngách “gộp con”, chia nhiều tầng nấc. Có những hang thông nối với nhau,  cao, sâu tới hàng chục mét, càn chui vào sâu, càng tối om, thấy “ớn lạnh” vì nỗi sợ rắn rết. Do vậy, chúng tôi chỉ chú tâm tìm ra những hang gộp có chứng tích người ở.  Ông La Chí Cường – người đã từng được cha mẹ “gùi” lên ở đây trong những trận chống càn. Ông chỉ dẫn tường tận, đâu là nơi gia đình mình trú ngụ, đây là nơi họp dân làng bàn mưu kế chống càn, đánh địch; đây là 1 cái hang nhỏ dành cho gia đình có 3 người, kia là hang lớn dành cho gia đình có hàng chục người ở. Trên mặt đá bằng phằng và rộng kia, khi săn thú rừng về, dùng làm nơi xẻ thịt, chia cho dân làng. Mỗi hang ở đều có một cái bếp, vết tích là những đụn tro ám khói ngã màu xanh rêu, những mảnh vỡ hủ sành chai lọ còn sót lại. Ông Cường còn chỉ cho tôi những loại trái cây, lá rừng người dân đã từng ăn nó thay cơm. Vừa dẫn giải vừa rủ rỉ kể chuyện:  “Tôi sinh năm 1958, năm 67  hồi ấy độ 9-10 tuổi, cũng là năm lính Đại Hàn (Nam triều tiên) vào làng Đồng xả súng, tôi bị thương cánh tay phải nhưng cha mẹ cứ để vậy “tha” tôi mà chạy lên đây, rồi mới tìm lá rừng băng bó vết thương. Truy kích theo dân làng, máy bay trực thăng bắn xối xả vào những gộp núi đá nhưng chẳng “thấm ngứa” gì, vì dân làng đã an toàn trong những mái đá giang tay che chở . Chúng chiếm giữ làng trong 7 ngày liền, chờ dân làng đói khát chịu hết nổi, ra khỏi hang để chúng lùa tập trung vào các “ấp chiến lược”. Nhà tôi cũng như dân làng không còn gì ăn, chờ tối trời mò ra suối Mằng Quân hái trái sung, trái ngái, trái bom núi, lá sắn, lá xanh… ăn thay cơm trong nhiều ngày. Vậy mà chẳng hiểu điều kỳ diệu nào đã giúp chúng tôi sống vượt qua những ngày đói cơm lạt muối”.
         
NHỮNG MŨI TÊN TẨM ĐỘC – (Brăm chi ngăng: Mũi tên độc)
          Theo già làng Ma Doãn, nay đã 80 tuổi,  nguyên là Bí thư, Chủ tịch xã Phú Mỡ cho đến ngày giải phóng 1975, ông kể chuyện trong hồi tưởng: Tôi sống ở đất Làng Đồng này trong suốt 2 cuộc trường chinh chống Pháp, đánh Mỹ nhưng chưa có thời kỳ nào mà dân làng chịu nhiều gian khổ ác liệt như những năm 1963 – 1967. Từ năm 62 – 63 địch mở đầu chiến dịch mang tên “Hải Yến”, huy động 15 tiểu đoàn quân chính quy và nhiều máy bay tiến hành càn quét vùng miền núi tỉnh Phú Yên. Khi đến xã Phú Mỡ, chúng đốt phá gần 90% buôn làng, ai chưa trốn kịp, chúng dùng trực thăng đưa vào các khu tập trung ở Buôn Ma Thuột. (Đăk Lăk). Dân làng Đồng này, không bị bắt lùa đi là nhờ vào Gộp đá Kôn Clon. (tiếng Banar là núi đá). Dân làng Đồng nói riêng và cả vùng núi Thồ Lồ này còn sống sót đến ngày nay luôn ngước mặt lên gộp núi Kôn Clon mà thầm nói lời biết ơn. Nếu không có những hang động trong ngọn núi đá này thì dân làng Đồng, Làng Len, làng Thanh, làng Xí thuộc xã Thồ Lồ (nay gọi là xã Phú Mỡ, huyện Đồng Xuân, Phú Yên) một là phải theo giặc hoặc phải chết dưới sự tàn sát, dã man trong nhiều trận càn quét của lính Nam Triều Tiên. Khi đồng bào đã chui hết vào các hang gộp thì không có một thằng địch nào dám bén mảng. Vì trong ngóc hang đã bố trí những tay ná cự phách với hàng trăm mũi tên tẩm độc, sẵn sàng lao vun vút cấm thẳng vào quân thù. Thời chống Pháp, có những thằng Tây “hăng máu” truy đuổi dân làng lên đây đã bị chết “không kịp ngáp”, chúng đã kinh hồn với loại vũ khí không phát ra tiếng nổ, không định vị được đối phương nhưng tính sát thương trong tầm ngắn, độ chính xác của dàn cung thủ thiện xạ là vô cùng lợi hại. Đã dính vào tên độc thì không trường hợp nào gọi “bị thương” mà chỉ có từ chết tới… chết. Loại cây dùng để lấy nhựa làm thuốc tẩm tên độc có tên là Lon chi ngăng, bây giờ chỉ còn độc nhất một cây ở suối Mằng Quân. Làng bây giờ cũng duy nhất chỉ có ông Ma Thìn là người nắm giữ bí kíp công thức chế ra loại độc dược này. Nhưng ông đã bỏ việc bào chế thuốc này từ 3 năm nay. Vì ông Thìn cho rằng, ngày trước làm thuốc độc tẩm vào băng cung, mũi tên để giết giặc, săn bắn thú dữ (cọp, beo). Rừng bây giờ chỉ còn cây với lá, thú rừng đã bị súng đạn của lâm tặc ăn hết rồi, chế thuốc này để làm cái gì nữa.
                            
THÀ CHẾT CHỨ KHÔNG THEO GIẶC !
          Đó là lời thề một lòng chung thuỷ, son sắc với Đảng, với cách mạng của dân tộc Chăm, Ba Na vùng cao Thồ Lồ – Phú Mỡ (huyện Đồng Xuân, Phú yên). Đó cũng là câu nằm lòng của các dân tộc thiểu số Miền Tây Phú Yên đã giúp họ bền gan, vững chí, kinh thượng đoàn kết, quyết tâm đánh Mỹ, thắng Mỹ. Ông La Chí Noa – nguyên là uỷ viên thường vụ huyện uỷ được giao phụ trách mặt trận Miền Tây của tỉnh vừa kể chuyện, vừa nhắc lại như vậy với giọng điệu khẳng khái của một vị tổng chỉ huy các lực lượng trước lễ xuất quân năm nào. Ông kể rằng: Vào những năm 1962-1963, đây là thời điểm Mỹ nguỵ thực hiện chính sách khủng bố “Tam quang” – đốt sạch, giết sạch, cướp sạch. Chúng coi đó là biện pháp tách cá khỏi nước hòng cô lập hoạt động cách mạng. Mặt khác chúng ra sức càn quét, đánh phá dữ dội; toàn bộ nhà cửa, bò ngựa các vùng căn cứ cách mạng đều bị chúng đốt phá, cướp bóc không thương tiếc. Nhân dân bị chúng dồn vào các ấp chiến lược Bình Tuy, Đồng Tre, La Hai, Buôn Ma Thuột…
          Lúc này Làng Đồng là một trong những căn cứ trú quân của huyện đội Miền Tây và Trung đoàn Ngô Quyền – bộ đội chủ lực từ miền Bắc vào chuẩn bị cho những trận đánh lớn vào quận lỵ Đồng Xuân, Sông Cầu.
          Vào mùa khô năm 63, trong một trận càn quét 7 ngày đêm của địch ở vùng núi Xuân Quang 1, Phú Mỡ. Chúng huy động rầm rộ các lực lượng không kích, pháo binh, bộ binh; trên không máy bay oanh tạc, dưới đất biệt kích, lính Biệt động dù đổ bộ. Rừng ChưnBran, sông Hà Đan, suối Cà Tơn một dãy trường sơn mênh mông trong xanh bổng chốc rung chuyển, gầm rú tan hoang trong lửa đạn. Dân làng Đồng được lệnh di tản vào gộp đá Kôn Clon tránh bom đạn – đó là một đường hầm thiên tạo dài hun hút, đủ sức che chở cho hàng trăm người lánh nạn càn quét. 7 ngày nằm trong hang đá, cái chết do đói khát đã rình rập, khắc khoải dân làng. Sau khi địch rút đi, trên 50 gia đình, với hàng trăm con người trở về làng. Thì than ôi ! nhà cửa, rinh lúa (kho) chỉ còn là đống tro tàn đổ nát, bò ngựa, heo gà lớp bị chúng cướp di, lớp bị chúng sát hại – xác súc vật chết ngổn ngang, vất vưởng ung thối cả một vùng rừng. Vừa đương đầu với bom đạn, chết chóc giờ lại phải cầm cự với cái đói nghiệt ngã cùng cực.
          Ông La Văn Lung – trưởng thôn Xí Thoại – nguyên là trung đội trưởng đơn vị C3 đóng quân tại Làng Đồng cho biết: Nạn đói của làng Đồng bắt nguồn từ trận càn quét năm 63, tiếp đến là những đợt máy bay rải chất độc hoá học rừng cây trụi lá, rồi hạn hán mất mùa. Cái đói cứ lây lan cho dân làng và bộ đội sang tới năm 67. Đói dữ lắm, đói không thể tả – chuối cây, lá đu đủ người ăn cây không kịp lên, cành không kịp bén lá. Mỗi đọt lá sắn bây giờ là một hạt gạo quý, vậy mà chất độc hoá học của Mỹ thiêu rụi, triệt lấy nguồn sống. Mỹ nó độc ác còn hơn cọp beo trên rừng.
          Dân làng hết cái ăn do mình làm ra thì quay sang tìm rau rừng, củ núi: trái sung, trái ngái, củ pấu, củ nần, củ mài, rau chóc, lá rướng… là nguồn sống xung quanh làng nhưng đến lúc cũng phải cạn kiệt. Tìm cái ăn con người phải lang thang như con hươu, con nai đi tìm lộc cây, nguồn nước. Nhiều người đi tìm cái ăn bị đói lả, kiệt sức rồi chết ngoài suối, trong rừng. Củ nần, nấm độc đã cướp đi nhiều sinh mạng… Ngày laị qua ngày, nhìn những người thân thích ruột rà của mình lần lữa trút hơi thở cuôí cùng… mà bất lực, không biết phải làm gì. Trong làng ngày nào cũng có người chết. Nhà ông Ma Dơn – giàu có nhất làng, bò năm bảy chục con, giờ trắng tay; 15 người thân trong nhà (kể cả người ở mướn) lần lượt chết rụi không còn một ai. Nhẩm tính từ năm 63 đến năm 67, làng Đồng đã có trên 70 người chết đói và bệnh tật, chết nhiều nhất là năm 1967. Trong cảnh khốn cùng có người bức không chịu nổi bỏ theo địch vào ấp chiến lược nhưng đại đa số dân làng vẫn ở lại với bộ đội, đồng cam cộng khổ sống chết có nhau.
          Ông Ma Doãn kể thêm: Gia đình tôi sống đông đủ đến nay là may mắn nhất; thằng La Chí Dũng kia, mẹ sinh ra nó năm 1964; năm đó đói quá, mẹ mất sữa, mỗi bữa tôi lần mò đến nhà nào có gạo nấu cơm để xin chắt vài giọt nước cơm mang về nhỏ vào miệng nó; vậy mà qua được, sống và lớn phỏng phao tới giờ. Tội cho bộ đội mình thời đó, một trung đội vài chục người ăn mà mỗi lần nấu chừng 2 ký gạo, miếng sắn, trái sung cõng trên lưng vài ba hột cơm – chấm với tro tranh mà ăn ngon ngọt. Thấy mà thương đứt ruột, nhưng chẳng biết làm sao được. Vậy mà vẫn gan dạ sống và chiến đấu đến ngày thắng lợi.
         
CHỚ ĐỂ ĐỊA CHỈ ĐỎ… BỊ LÃNG QUÊN
         
       Đó là lời đề nghị và mong mỏi nhất của đồng bào dân tộc Banar làng Đồng trong hàng chục năm nay. Ông Ma Việt – Bí thư Đảng uỷ xã Phú Mỡ cho biết: xã đã cử người xác minh và lập danh sách từ những gia đình có người tử nạn thời đó, thì số người chết trong những trận chống càn ở làng Đồng lên con số gần cả trăm. Cách đây 5 năm đã gửi danh sách này và tờ trình nhờ Ông La Chí Noa làm việc với cơ quan chức năng xem xét, lập hồ sơ về Gộp đá Kôn Clon là di tích kháng chiến, theo đề nghị của cử tri làng Đồng. Nhưng ông Noa đã đột ngột qua đời  nên công việc dở dang, bây giờ chưa biết nhờ ai?. Vợ ông La Chí Noa là đại biểu Nguyễn thị Diệu Thiền đã có lần phản ảnh ý kiến cử tri xã Phú Mỡ về sự kiện trên trong một kỳ họp Hội Đồng nhân dân tỉnh nhưng chưa được ngành chức năng để ý.
          Cũng như bao chiến công thầm lặng, số người chết ở Làng Đồng chỉ là nhẩm tính, có thể chưa chính xác. Nhưng sự kiện chết đói do kẻ thù o ép, vùi dập là có thật. Những cái chết buất khuất, kiên cường để bám trụ buôn làng, để tự do, để được sống với cách mạng, để núi rừng miền Tây trở thành luỹ thép thời đánh Mỹ. Gộp Kôn Clon gắn với sự hy sinh anh dũng và chiến công của nhân dân của họ đáng được nhắc nhớ để tự hào và tôn vinh. 

                                                                                    Mạnh Minh Tâm