Di tích thắng cảnh vịnh Xuân Đài được hình thành trong quá trình kiến tạo địa chất của tỉnh Phú Yên nói riêng cũng như của cả vùng Nam Trung Bộ nói chung, diễn ra trong một quá trình lâu dài.
Vịnh Xuân Đài có diện tích mặt nước khoảng 13.045ha, nằm dọc theo hướng bắc – nam. Cửa vịnh rộng khoảng 4,4km. Phía Bắc cửa giáp thôn Dân Phú – xã Xuân Phương. Phía Nam cửa giáp thôn Phú Hội 5 – xã An Ninh Đông. Bờ vịnh Xuân Đài có chiều dài khoảng 50km, chạy qua nhiều vùng địa hình khác nhau.
– Đoạn từ Gành Đèn đến cửa Tiên Châu (thuộc địa phận xã An Ninh Đông) có núi Cây Me chạy sát bờ vịnh, mưa nắng và sóng biển đã bào mòn chân núi thành những bãi đá lớn. Đặc biệt Gành Đèn là một gành đá lớn có nhiều tảng đá lớn màu hồng nhạt chồng xếp lên nhau, tạo thành nhiều hang hốc nhỏ. Trên đó còn có ngọn hải đăng dùng hướng dẫn tàu bè ra vào vịnh Xuân Đài. Dưới mặt nước rong biển mọc dày như tấm thảm nhung dập dờn theo từng con sóng.
src=http://t3.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcQeMtVErYS1lGs4nfvtCRI-XVWC4C0NKm31UY-eGHDG25ZE_jie
 
Địa hình của vịnh Xuân Đài nghiêng dần từ Tây sang Đông và thấp dần từ Bắc xuống Nam. Bao quanh vịnh Xuân Đài là một số dãy núi cao và cũng chính là một phần của dãy Trường Sơn đâm thẳng ra biển. Ở phía Đông có bán đảo Xuân Thịnh, trên đó có một số ngọn núi tương đối cao như núi Động Bằng (cao 128m), núi Hai Phú (cao 358m), núi Hòn Tắc (cao 238m), núi Đồng Tranh (cao 156m), núi Hòn Đun (cao 149m). Phía Tây vịnh Xuân Đài, ngay sát vịnh có núi Ông Định (cao 305m), núi Phú (cao 100m), núi Đá Tượng (cao 127m) và núi Mù U, núi Gấm (cao 137m). Phía Nam vịnh Xuân Đài, ngay sát cửa vịnh trên địa bàn xã An Ninh Đông có núi Cây Me (cao 104m).
 
Quá trình hình thành tên gọi vịnh Xuân Đài
Xuân Đài còn có tên là Bà Đài, dùng chỉ một vùng đất thuộc vùng hạ lưu sông Cái (trong đó có cả vịnh Xuân Đài), xuất hiện từ giữa thế kỷ XVI, khi những lưu dân người Việt đầu tiên đến định cư ở vùng đất Phú Yên. Theo tài liệu lịch sử còn lại cho biết: Năm 1597, chúa Nguyễn Hoàng lệnh cho Phù Nghĩa hầu Lương Văn Chánh, quyền uy huyện Tuy Viễn, An Biên Trấn quan sức nhơn số xã Bà Thê đến hạn và khách hộ các thôn, phường tùng hành ứng vụ, nhưng sức các hộ dân mới đến tựu các xứ Cuø Moâng, Baø Ñaøi, Baø Dieãn, Baø Noâng, töø treân đầu nguồn cho ñeán dưới cöûa bieån, kết lập gia cư địa phận, khai phaù ñaát hoangnoäp thueá nhö leä”([1]).
 Nhiều tài liệu xác định tên gọi Bà Đài chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ bản địa cổ, nhưng sau đó Việt hóa thành Xuân Đài. Theo sách Đại Nam nhất thống chí viết: “Phá Xuân Đài: ở phía bắc huyện Đồng Xuân, phía Đông giáp biển, phía Tây giáp cửa biển Vũng Lấm, phía Bắc có vũng La, vũng Sứ và vũng Chào. Lại đầm Xuân Đài có tên nữa là đầm Phòng Câu ở thôn Tiên Châu”(2)
Về mặt hành chính, cuối thế kỷ XIX thành lập tổng Xuân Đài thuộc huyện Đồng Xuân. Tổng Xuân Đài nằm vào khoảng phía bắc huyện Sông Cầu. Sau năm 1945, tổng Xuân Đài bị bãi bỏ. Các địa danh gắn với tên Xuân Đài cũng dần dần cũng mất đi. Hiện nay tên Xuân Đài chỉ còn dùng để gọi vịnh Xuân Đài và phường Xuân Đài.
 
Các sự kiện lịch sử liên quan đến vịnh Xuân Đài.
Vịnh Xuân Đài là một địa danh chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử liên quan đến vùng đất Phú Yên cũng như của cả nước.
Vào cuối thế kỷ XVI, những người Việt đầu tiên theo ông Lương Văn Chánh vào Phú Yên đã chọn những vùng đất Cù Mông, Bà Đài (hạ lưu sông Cái), Đà Diễn (hạ lưu sông Đà Rằng), Đà Nông (hạ lưu sông Bàn Thạch) làm địa bàn sinh sống. Khu vực Bà Đài vừa có phù sa sông Cái bồi đắp, lại vừa có vùng vịnh kín gió thuận lợi cho việc neo đậu tàu thuyền đánh bắt hải sản. Quá trình định cư lâu dài đã tạo thành những điểm dân cư đông đúc gồm nhiều làng cổ bên bờ vịnh Xuân Đài và tồn tại cho đến ngày nay như làng Tiên Châu, Bình Thạnh, Tân Thạnh…
Trong thời kỳ giao tranh giữa nhà Tây Sơn với nhà Nguyễn, vịnh Xuân Đài trở thành chiến trường với nhiều trận thuỷ chiến lớn mà một trong những lần quân chúa Nguyễn hành quân đến đây còn lưu lại trong thơ cổ:
Duyệt nguyệt chu sư bạc tiểu thành,
Bà Đài ngạn thượng thả hưu binh.(1)
(Trải tháng chu sư đậu ở tiểu thành,
Lên bờ biển Bà Đài để tạm nghỉ binh)
Tháng 6 năm 1775 tướng chúa Nguyễn Tống Phước Hiệp đánh chiếm Phú Yên, quân bộ và quân thuỷ đóng tại khu vực Xuân Đài, nhưng tháng 8 năm đó lại bị quân Tây Sơn đánh bại phải lui vào Hòn Khói (Khánh Hoà).
Năm 1793, Nguyễn Ánh chỉ huy đại quân đánh chiếm Phú Yên. Đến tháng 4 năm 1794, Phú Yên bị quân Tây Sơn giành lại, do đó một lần nữa Nguyễn Ánh phải rút khỏi Phú Yên.
Năm 1800, quân Nguyễn Ánh tiếp tục đánh chiếm Phú Yên, thuỷ quân đóng tại vũng Lắm. Nhưng đến tháng 4 năm 1801 quân Tây Sơn bí mật đột kích vũng Lắm, tướng của của Nguyễn Ánh là Lưu Tiến Hoà bị tử trận, quân Nguyễn Ánh thua to. Sau đó không lâu, quân của Nguyễn Ánh đánh bại quân Tây Sơn, đồng thời tiêu diệt cả vương triều Tây Sơn để lập ra vương triều Nguyễn.
Vịnh Xuân Đài là nơi diễn ra hoạt động ngoại giao đầu tiên giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Năm 1832, phái đoàn ngoại giao Hoa Kỳ do Edmund Robert (phiên âm chữ Hán là Nghĩa – đức – môn La – bách) và George Thompson (phiên âm chữ Hán là Đức – giai Tâm – gia) mang theo thư của Tổng thống Andrew Jackson đến vũng Lắm. Vua Minh Mạng cử viên Ngoại lang Nguyễn Tri Phương và Tư vụ Lý Văn Phức đến cùng quan tỉnh Phú Yên lên thuyền thiết tiệc và hỏi ý họ đến đây để làm gì. Phái đoàn Hoa Kỳ cho biết họ đến đây để xin giao hảo thông thương. Khi dịch quốc thư ra Hán Việt thì có chỗ không hợp thức nên vua Minh Mạng phê là không cần đề lên ngự lãm chỉ giao quyền Lãnh Thương bạc (cơ quan ngoại giao) trả lời rằng không có gì trở ngại trong việc thông thương, nhưng phải tuân theo pháp luật của nước ta và lần sau nếu có đến thì vào vụng Sơn Trà để cho tiện.
Cuối thế kỷ XIX, cuộc khởi nghĩa hưởng ứng phong trào Cần Vương do Lê Thành Phương lãnh đạo nổ ra ở Phú Yên. Đến tháng 6 năm 1887, quân viễn chinh Pháp dưới sự chỉ huy của Chevreux, Tirant và Trần Bá Lộc đổ bộ vào vịnh Xuân Đài nhằm đàn áp cuộc khởi nghĩa. Căn cứ của nghĩa quân đóng ở vịnh Xuân Đài do Bùi Giảng chỉ huy nhanh chóng bị thất thủ, hai tuần sau đó cuộc khởi nghĩa bị dập tắt. Các thủ lĩnh chỉ huy của cuộc khởi nghĩa bị bắt và bị hành hình, trong đó có Ngô Kiêm Ký, một Hoa kiều tại vũng Lắm chuyên cung cấp vũ khí cho quân khởi nghĩa.
Tháng 4 năm 1945 tàu hải quân của quân đội Nhật Hoàng tiến vào vịnh Xuân Đài để làm bàn đạp tiến sâu vào đất liền, nhưng bị phi cơ Đồng Minh bắn chìm giữa vịnh. Thân tàu chìm khuất dưới làn nước sâu, chỉ còn nhô lên cột cờ tàu và đài quan sát. Cho đến những năm cuối thập niên 80 đầu 90 của thế kỷ XX vẫn còn dấu tích trong vịnh Xuân Đài.
Vũng Lắm nằm trong vịnh Xuân Đài cũng là thương cảng bậc nhất của Phú Yên. Tàu thuyền trong và ngoài nước cập bến nơi này để mua hàng hóa, nhiều nhất là mặt hàng nông – lâm thổ sản. Tại vũng Lắm có một cộng đồng người Hoa đến định cư vào khoảng cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Họ chuyên làm nghề buôn bán, người Hoa đã góp phần làm cho vũng Lắm thêm sầm uất.
Cuối thế kỷ XIX, sau khi thiết lập nền bảo hộ lên phần đất Trung kỳ, thực dân Pháp đặt toà Công sứ ngay tại vũng Lắm vào năm 1887, đồng thời đặt Sở Thương Chánh để kiểm soát việc buôn bán. Năm 1888, tỉnh đường Phú Yên dời từ thành An Thổ ra gần toà Công sứ, nhưng một năm sau đó toà Công sứ chuyển ra Sông Cầu (thị trấn Sông Cầu hiện nay) tỉnh đường chuyển về lại thành An Thổ, đến năm 1899 cũng dời ra Sông Cầu. Từ sau năm 1945, khi tỉnh lỵ chuyển về Tuy Hoà, thì Sông Cầu trở thành thị trấn huyện lỵ cho đến nay.
 
Đa dạng sinh học
Theo điều tra, khảo sát của Sở Tài nguyên – Môi trường Phú Yên, trong vịnh Xuân Đài có hệ sinh thái rất phong phú và đa dạng:Về san hô có trên 100 loài, tập trung nhất là ở Từ Nham, Vũng La và Hòn Yến.Tại Từ Nham có 51 loài. Tại Hòn Yến có 17 loài. Tại Vũng La có 41 loài.Về các loại tảo và phù du có 188 loài thuộc 6 ngành, trong đó, ngành tảo Xilic chiếm nhiều nhất: 110 loài.
Về cỏ biển có 08 loài. Thực vật thuộc rừng ngập mặn có khoảng 21 loài thuộc 15 họ, phân bố xung quanh vịnh Xuân Đài. Các động vật phù du có 58 loài, thuộc 2 ngành của bộ giáp xác chân chèo và giáp xác râu. Động vật thân mềm mảnh vỏ có 04 loài.
Về cá có 180 loài, thuộc 59 họ, 11 bộ, trong đó có cá mồi mõm nằm trong danh mục sách đỏ Việt Nam.
Thắng cảnh vịnh Xuân Đài là sự kết hợp tổng quan của nhiều yếu tố của núi non, của biển cả và các hoạt động của con người. Đến Xuân Đài là đến với một vùng non nước thắm đượm màu xanh: mặt biển xanh, rừng dừa xanh, rừng dương xanh, núi non xanh và bầu trời xanh thẳm. Xung quanh vịnh Xuân Đài là những xóm làng bình yên nấp bóng dưới rừng dừa, những bãi cát trắng xen lẫn những bãi đá có hình thù khác lạ. Đi thuyền trên vịnh Xuân Đài, phóng tầm mắt về hướng  Tây nhìn thấy những dãy núi cao trùng điệp, nhìn về hướng Đông trên bán đảo Xuân Thịnh bên cạnh những ngọn đồi xanh là cồn cát Từ Nham như một đám mây trắng sà xuống đỉnh núi để ngắm vịnh Xuân Đài. Vịnh Xuân Đài như bức tranh thuỷ mặc, đầu thế kỷ XX, một thi sỹ đã ca ngợi:
Sông Cầu dạo mát buổi tà dương
Bờ biển nhìn xem đẹp khác thường
Sóng lượn nhấp nhô phô ngọc bích
Cát pha lóng lánh dợn kim cương
Dừa xanh lộng gió du dương hát
Buồm trắng nương lèo phấp phới trương
Tạo hoá khéo tô tranh thuỷ mặc
Càng xem càng luyến cảnh quê hương./.
 
Với tầm vóc, giá trị và ý nghĩa ý nghĩa lịch sử, vịnh Xuân Đài được Bộ VHTTDL công nhận danh thắng cấp quốc gia đầu năm 2011.
                                              MMT  ( theo LÝ LỊCH DI TÍCH THẮNG CẢNH VỊNH XUÂN ĐÀI)

[1]. Bảo tàng Phú Yên: Danh nhân lịch sử Lương Văn Chánh, năm 1996, trang 17
2. Quốc sử quán triều Nguyễn – Đại Nam nhất thống chí, t3, nxb Thuận Hoá – Huế 2006, tr 86.
1. Cao Xuân Dục, Lưu Đức Xửng, Trần Xán, Đại Nam nhất thống chí, quyển 10, tỉnh Phú Yên, Nxb. Nha văn hoá, Sài Gòn, 1964, trang 33-34.