(tiếp theo phần 1)

2.4. Ban biên tập
Ban biên tập nòng cốt của Gia Định báo gồm có: Trương Vĩnh Ký (chủ nhiệm), Huỳnh Tịnh Của (chủ bút), Trương Minh Ký và Tôn Thọ Tường.
2. 4. 1. Trương Vĩnh Ký (1837 – 1898)
Trương Vĩnh Ký sinh tại thôn Cái Mơn, xã Vĩnh Thanh, huyện Tân Minh, tỉnh Vĩnh Long (nay thuộc huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre) trong một gia đình theo đạo Thiên Chúa. Thuở nhỏ, ngoài học chữ Nho, chữ Quốc ngữ và La tinh với Cố Long, ông còn học thêm nhiều ngoại ngữ khác. Năm 1863, ông được quan khâm sai Phan Thanh Giản mời tháp tùng qua Pháp và Ý thương thuyết. Yết kiến Đức Giáo Hoàng tại Roma. Tiếp xúc với các nhà văn Pháp nổi tiếng Victor Hugo, Littré… Sau đó, ông lần lượt làm giáo sư, giám đốc trường Thông ngôn; thông ngôn cho Sứ thần Y pha Nho; trở thành hội viên hội Á châu (Société asiatique) do sự giới thiệu của Littré và Renan; làm Chánh Đốc Học Đường Tham Biện Hậu Bổ. Năm 1898, Trương Vĩnh Ký mất trong cảnh bệnh tật và khánh tận.
Trong Các tác giả văn chương Việt Nam, Trần Mạnh Thường viết: Ông là người hợp tác với Pháp, nhưng không giống như Tôn Thọ Tường lóa mắt trước cảnh văn minh phương Tây, còn Trương Vĩnh Ký muốn có một vai trò trung gian giải quyết mọi vấn đề có lợi cho đất nước. Nghĩa là trái tim ông vẫn theo nhịp đập dân tộc. Nhưng vai trò ấy thật khó khăn và bạc bẽo. Phía nam triều thì nghi kỵ mối thiện chí của ông vì cho ông là người của Pháp. Phía Pháp thì thấy ông có nhiều sủng huệ nhất thời của Paul Bert, nên tìm cách phá, vu cho ông là người An Nam không thật lòng với Tây [22, 2694].
Với 119 tác phẩm (có tài liệu ghi 121), ta thấy Trương Vĩnh Ký có một văn nghiệp đồ sộ, phong phú, đa dạng thể hiện sức viết cần mẫn cũng như tài năng hiếm có của ông.
Khi biên soạn Tự điển văn học (1984), giáo sư Nguyễn Huệ Chi đã hệ thống hóa trước tác của Trương Vĩnh Ký thành 6 loại như sau: 1. Nghiên cứu về lịch sử, địa lý như sử ký An Nam, sử ký Trung Quốc, Tập giáo trình về địa lý Nam Kỳ…; 2. Nghiên cứu về các bộ môn khác trong khoa học xã hội như: nghiên cứu so sánh tiếng nói, chữ viết, tín ngưỡng và tôn giáo của các dân tộc Đông dương; Tổng luận về các lối chữ tượng ý, tượng hình theo ngữ âm và theo vần a, b, c; nghiên cứu so sánh tiếng nói và chữ viết của ba ngành ngữ: phép lịch sự An Nam, Hát lý hò An Nam…; 3. Biên soạn từ điển như Từ điển Pháp – Việt; Từ điển Pháp – Hán – Việt; Từ điển địa lý An Nam; Từ điển danh nhân An Nam; 4. Dịch sách chữ hán như: Tứ thư; Sơ học vấn tâm; Tam tự kinh; Tam thiên tự; Minh tâm bảo giám…; 5. Sưu tầm, phiên âm truyện Nôm và tác phẩm cổ Việt Nam như: Truyện Kiều, Phan Trần, Đại Nam quốc sử diễn ca, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc...; 6. Sáng tác thơ như: Bút ký ghi về Vương quốc Khơmer, chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi, thơ Tuyệt mệnh…
Ngoài ra, theo Cao Tự Thanh, có thể chia văn nghiệp của Trương Vĩnh Ký làm hai thời kỳ trước 1879 và từ 1879 trở đi. Sở dĩ lấy mốc 1897 là vì hai lẽ. Thứ nhất, năm 1879, thực dân chính thức xóa bỏ chế độ quân quản với các Đô đốc Toàn quyền để thay bằng các viên Toàn quyền dân sự, tiến thêm một bước trong việc xây dựng chế độ hành chính thuộc địa ở Nam Kỳ. Thứ hai, chữ quốc ngữ Latinh được coi là chữ viết chính thức từ 1879 dẫn tới những thay đổi cơ bản trong các hoạt động khoa học, giáo dục và thông tin. [22]
 
src=http://k14.vcmedia.vn/Images/Uploaded/Share/2011/06/20/20110620kpbao1.jpg
 
2. 4. 2. Huỳnh Tịnh Của (1834-1907)
Huỳnh Tịnh Của hay Huình Tịnh Của hay còn gọi là Paulus Của, hiệu Tịnh Trai, quê ở làng Phước Thọ, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, là một nhà văn hóa học và ngôn ngữ học có đóng góp xuất sắc trong việc nghiên cứu, phát triển và truyền bá chữ quốc ngữ trong giai đoạn đầu, đặc biệt là ở Nam Bộ. Thời trẻ, Huỳnh Tịnh Của đi du học tại một trường công giáo ở Penang, Malaysia. Sớm tiếp thu tư duy nghiên cứu khoa học phương Tây, ông tinh thông cả tiếng Hán và tiếng Pháp. Năm 1861, Huỳnh Tịnh Của được bổ nhiệm Ðốc phủ sứ, làm Giám đốc ty phiên dịch văn án ở Soái phủ Sài Gòn, ngoài ra ông còn giành nhiều thời gian nghiên cứu chữ quốc ngữ. Năm 1865 ông tham gia viết báo cho Gia Định báo với tư cách chủ bút. Mặc dù ông giỏi cả hai ngôn ngữ Hán và nhưng trong sáng tác của ông lại sử dụng chữ quốc ngữ, ông đề nghị dùng chữ quốc ngữ thay cho chữ Hán và gửi một bản điều trần cho vua Tự Đức, yêu cầu cho xuất bản báo chí quốc ngữ để giáo dục quần chúng, nhưng không được chấp nhận. Ông mất năm 1907, thọ 73 tuổi, an táng tại Bà Rịa.
Huỳnh Tịnh Của sáng tác tất cả khoảng 17 tác phẩm. Có thể xếp chúng thành hai loại: biên khảo (có nội dung phổ biến kiến thức hoặc sưu tầm phóng tác các tác phẩm đời trước) và loại phiên âm (chuyển sang quốc ngữ những truyện thơ Nôm). Trong đó, nổi bật nhất là pho Đại Nam quốc âm tự vị.
2. 4. 3. Tôn Thọ Tường (1825 – 1877)
Tôn Thọ Tường là một danh sĩ thời nhà Nguyễn, người huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định (nay thuộc TP.HCM). Ngay từ thời trẻ khi học ở Huế, ông nổi tiếng văn hay chữ tốt. Năm 1840, thân phụ qua đời, nên việc học của ông bị dở dang, đến năm 30 tuổi vẫn chưa đỗ đạt gì. Cuộc đời ông lận đận, và do ông cộng tác với thực dân Pháp nên bị các trí thức người Việt chỉ trích mạnh mẽ, tiêu biểu là cuộc bút chiến của Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị. Tôn Thọ Tường được đánh giá là một nhà thơ có thi tài được thể hiện qua một số bài thơ có hình tượng nghệ thuật như  Đĩ già đi tu, Từ thứ qui Tào, Cây mai, Mười bài tự thuật
2. 4. 4. Trương Minh Ký (1855-1900)
Trương Minh Ký có biệt hiệu là Thế Tải, ông sinh ngày 23/10/1855 tại Gia Định, là học trò của Trương Vĩnh Ký. Ông thông Hán và giỏi Pháp văn, làm thông ngôn cho nhà cầm quyền Pháp, cộng tác với Trương Vĩnh Ký trên tờ Gia Định báo, Thông Loại Khóa Trình cũng như viết sách dạy Pháp văn. Ông mất ngày 11/08/1900.
Trương Minh Ký không được người ta chú ý nhưng vừa là môn đệ, vừa là người cộng tác thân cận với Trương Vĩnh Ký, xét qua văn nghiệp, cũng xứng đáng dành cho ông một chỗ đứng trong các nhà văn tiền phong chữ quốc ngữ. Ông hành văn cũng bình dân, mộc mạc như Trương Vĩnh Ký và Huình Tịnh Của, chuyên dịch chữ Hán ra quốc ngữ và sử dụng văn vần nhiều hơn văn xuôi. Ông có những tác phẩm đáng chú ý như: Phong thần bá áp khảo, Ấu học khải phong, Trị gia cách ngôn, Cổ văn chơn bửu, Pháp học tân lương…
3. Đóng góp của Trương Vĩnh Ký và Gia Định báo trong Việt Nam văn học sử
Nguyễn Đình Chú từng viết:Lịch sử văn học, xét cho cùng là lịch sử cách tân văn học [3, 15]. Và, theo quan niệm của ông thì có hai mức độ cách tân: Cách tân trong nội bộ một phạm trù văn học và cách tân có ý nghĩa chuyển từ phạm trù văn học này sang phạm trù văn học khác.
Sự thay đổi phạm trù văn học là sự cách tân có tính chất đồng bộ, toàn diện về lực lượng sáng tác, về công chúng văn học, về phương diện văn học, về phương thức tồn tại của văn học, về quan niệm nghệ thuật, về đề tài, về ngôn ngữ, về thể loại, thể tài cùng với hệ thống thi pháp. Thực hiện những điều đó không thể trong một thời gian một sớm một chiều mà đòi hỏi phải qua một quá trình khá gay go và phức tạp. Chúng ta có thể xem 30 năm đầu thế kỉ là chặng đường đầu của sự cách tân văn học. Tính giao thời thể hiện rõ nhất trong giai đoạn này.
Và cũng theo lý luận này, có thể nói một trong những người làm nên tính giao thời đó, là Trương Vĩnh Ký. Công lao về mặt văn hóa của Trương Vĩnh Ký thể hiện bằng việc chuyển dịch ngôn ngữ nhằm giới thiệu những tác phẩm của người mình với người nước ngoài. Trương Vĩnh Ký là người đầu tiên đã dịch những sách Nôm ra quốc ngữ như: Kim Vân Kiều, Đại Nam quốc sử diễn ca, Lục Vân Tiên, Phan Trần… Ông viết nhiều sách học bằng quốc ngữ, chữ Pháp và Hán tự về đủ mọi khoa học như địa lý, lịch sử, cách trí… mà giá trị nhất là bộ Việt Nam lịch sử (1879) và Pháp – Việt tự điển
Trương Vĩnh Ký cũng là người đặt nền móng cho sự phát triển báo chí Việt Nam trên mọi phương diện, phong phú đủ mọi thể loại, tổ chức rất quy mô, đa dạng về mọi phong cách, phóng những cái nhìn xa xôi hơn để cổ động về tân học, tiếp xúc với bạn đọc và đã được thiện cảm với mọi giới. Tờ Gia Định báo khi còn Ernest Potteaux quản nhiệm chỉ là một bản tin, một bản dịch Việt văn của tờ Coarrier de Sài Gòn nhưng khi đến tay ông quản nhiệm (Ngày 16.90.1869) thì tờ báo khác hẳn. Cả hình thức lẫn nội dung đều thay đổi nhiều, nhằm tập trung vào 3 chủ đích: cổ động tân học, truyền bá quốc ngữ và giáo dục quốc âm. Trương Vĩnh Ký (cùng Nguyễn Trọng Quản…) chủ trương đưa cuộc sống đời thường và lời nói thường vào trang viết. Chủ trương này là một ý thức rõ rệt về việc hiện đại hoá và dân chủ hoá văn chương, rất tôn trọng công chúng, nhưng hoàn toàn khác với việc làm hàng chợ, hay hạ chuẩn văn chương, nhằm một mục tiêu nào đó.
 
src=http://images1.tuoitre.vn/tianyon/ImageView.aspx?ThumbnailID=503689
 
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu đánh giá cao Gia Định Báo vì nó giúp ta hiểu được khúc quanh lịch sử của đất nước ta: từ phong kiến Á Đông chuyển sang thuộc địa nửa phong kiến, bắt đầu sử dụng quốc ngữ Latinh đồng thời học tập theo khoa học thực nghiệm tây phương. [27]
Bùi Đức Tịnh trong Những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết và thơ mới (l865 – 1932) viết: Trong chức vụ chánh tổng tài Gia Định Báo, ông đã tìm một phương hướng để thực hiện cuộc duy tân (…) Khuyến khích và tạo điều kiện tập tành cho các thầy thông ngôn, ký lục, giáo tập viết báo, viết văn… [23, 37 – 38]
Tiến sĩ ngôn ngữ Lê Khắc Cường, ngôn ngữ sử dụng trên Gia Định báo là những lời ăn tiếng nói của người dân Nam bộ, gần gũi với phong cách báo chí hiện nay. Và đặc biệt, tiến sĩ Cường còn cho rằng việc ngôn ngữ báo chí phát triển đến loại hình báo điện tử như hiện nay, có một phần đóng góp lớn từ cách sử dụng từ ngữ trên tờ báo Việt ngữ đầu tiên này. [27]
Tác giả Nguyễn Hải Lộc trong Tìm hiểu Gia Định báo cho rằng: Ngoài những đóng góp về văn học, Gia Định báo còn là một chứng nhận lịch sử. Trong nội dung của các số áo ghi lại rất nhiều tài liệu về mọi lĩnh vực như Hành chính, Chính trị, Kinh tế, Xã hội… trong những năm đầu Pháp thuộc ở Nam kỳ, nhất là ở phần Công vụ. [27]
Tóm lại, với Gia Định báo, lần đầu tiên trong lịch sử, nước ta chứng kiến tác phẩm văn chương công bố bằng trang báo. Nói khác đi, công chúng văn chương bắt nguồn từ công chúng báo chí. Và văn học hiện đại Việt Nam nẩy mầm trên báo chí, theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng của từ này.
Nền văn học Việt Nam từng chứng kiến nhiều câu chuyện tranh luận ồn ào, sôi nổi. Những tranh luận về Truyện Kiều, Thơ cũ – Thơ mới, Nghệ thuật vị nghệ thuật – Nghệ thuật vị nhân sinh dường như đều đã có những kết luận rõ ràng và hợp lý. Tuy vậy cũng có nhiều vấn đề, nhiều nhân sĩ chưa được nhìn nhận đúng mức. Trương Vĩnh Ký là một trong số những trường hợp đó. Bi kịch bao trùm lên cuộc đời ông khi ông sinh ra trong thời đại lịch sử phức tạp, nặng nề. Chính vì bối cảnh lịch sử ngổn ngang giọng điệu khen chê mà những đóng góp cho văn hoá, văn học của ông từng bị xoá nhoà, che lấp bởi các cáo buộc liên quan đến hành động chính trị của ông. Hơn một trăm năm đã qua, độ lùi thời gian đủ để dư luận trân trọng hơn những công lao của Trương Vĩnh Ký đối với văn hoá, ngôn ngữ, văn học. Trong số đó, Gia Định báo là một cống hiến to lớn của Trương Vĩnh Ký. Vốn là một tờ báo của Pháp nhưng Trương Vĩnh Ký và các cộng sự đã nỗ lực biến nó trở thành công cụ mở mang kiến thức, phổ biến Quốc ngữ cùng nền Tân học cho đại đa số các sĩ phu bấy giờ. Gia Định báo đã trở thành một cơ quan có ích lợi thiết thực cho dân trí, hoặc ít nhất là về mặt phát triển văn học. Không những thế, Gia Định báo còn có giá trị lịch sử cho các nghiên cứu về lịch sử, xã hội học. Thiết nghĩ, cần có nhiều công trình quan tâm tìm hiểu và khai thác hơn nữa một công trình có giá trị to lớn như Gia Định báo.
 Trần Xuân Tiến
Tài liệu tham khảo
1. Jean Bouchot (1927), Petrus Ký, savant et patriote cochinchinois; Jean Bouchot, Petrus J. B. Trương Vĩnh Ký: Un Savant et un Patriot Cochinchinois, 3ème éd. Revue et conigée, Sai Gon: Nguyễn Văn Của dịch.
2. Nguyễn Huệ Chi (2004), Từ điển Văn học – bộ mới, Nxb Thế giới.
3. Nguyễn Đình Chú (1991), Tài liệu bồi dưỡng giảng dạy sách giáo khoa lớp 11 CCGD môn Văn học, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.
4. Việt Chung (1990), Trương Vĩnh Ký, nhà nghiên cứu bác học, Tạp chí Văn nghệ TP.HCM số 650.
5. Nguyễn Sĩ Đạo (1941), Đại Việt văn học sử, Nxb Tân Hóa.
6. Bằng Giang (1993),Sương mù trên tác phẩm Trương Vĩnh Ký, Nxb Văn học, Hà Nội.
7. Hoàng Lại Giang(2001), Trương Vĩnh Ký bi kịch muôn đời, Nxb Văn hóa và thông tin, Hà Nội.
8. Nhiều tác giả (1987), Địa Chí Văn Hóa TP.HCM, Nxb Tổng hợp TP.HCM, TP.HCM  
9. Nhiều tác giả (2006), Thế kỷ XXI nhìn về Trương Vĩnh Ký, Nxb Văn hoá Sài Gòn, TP.HCM.
10. Dương Quảng Hàm (1960), Việt Nam Văn Học Sử Yếu, Nxb Bộ Quốc gia Giáo dục, Sài Gòn, trang 396.
11. Đào Văn Hội (1943), Danh nhân Nam Kỳ, Nhà in Lý Công Quận, Sóc Trăng.
12. Đặng Thúc Liêng (1927), Trương Vĩnh Ký hành trạng, nhà in Xưa Nay, Nguyễn Háo Vĩnh, Sài Gòn
13. Nguyễn Hải Lộc (1972), Tìm hiểu Gia Định báo, Viện Đại Học Vạn Hạnh, phân khoa Văn học và Khoa học nhân văn, Ban Cử nhân báo chí, Lưu hành nội bộ.
14. Huỳnh Minh(2001), Kiến Hòa xưa, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
15. Sơn Nam (1997), Cá tính miền Nam, Nxb Trẻ, TP.HCM
16. Phạm Thế Ngũ (1965), Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên, tập III, Nxb Quốc Học Tùng Thư Huế, trang 70, 73
17. Huyền Mặc Đạo Nhân, Danh Nhân Nam Kỳ: cụ Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn.
18. Vũ Ngọc Phan (1942), Nhà văn hiện đại, Nxb Tân Dân, Hà Nội (tái bản năm 1994, Nxb Văn học, Hà Nội).
19. Lê Thanh (1943), Trương Vĩnh KýBiên Khảo, Nxb Tân Dân, Hà Nội.
20. Trịnh Vân Thanh, Thành ngữ điển tích danh nhân từ điển (quyển 2). Nhà xuất bản Hồn Thiêng, Sài Gòn, 1966)
21. Khổng Xuân Thu (1958), Trương Vĩnh Ký 1837 – 1898, Nhà in Tân Việt, Saigon.
22. Trần Mạnh Thường (2008), Các tác giả văn chương Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, tập 2, trang 2694.
23. Bùi Đức Tịnh (1992), Những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết và thơ mới (l865 – 1932), TP.HCM.
24. Nguyễn Văn Tố(1937), Kỷ yếu hội Trí Tri Bắc kỳ, số 1-2
25. Nguyễn Văn Trung (1993), Trương Vĩnh Ký nhà văn hóa, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
26. Thomsom, J., The Straits of Malacca, Indochina: or, Ten Years Travels, Adventures and Residence Abroad, (Ma Xuân Đạo dịch, Mười năm du hành ở Trung Hoa và Đông phương), NewYork: Harper & Brothers, 1875), tr.177 178.
27. Tài liệu Hội thảo khoa học kỷ niệm 140 năm ngày thành lập Gia Định Báo – tờ báo Việt ngữ đầu tiên của Việt Nam, ĐH KHXh &NV TP.HCM, ngày 23/12/2005.
28. Báo Nguyệt San Đồng Nai, số 23 – 24 (1933), l5 Janvier – l Février, tr. 21 – 26.
29.  http://machuong.thivien.net/index.php?topic=77.0;wap2